Nach Genre filtern
- 170 - Hàng không: Máy bay Boeing có còn an toàn?
Một loạt các sự cố gần đây trên các chuyến bay làm hoen ố hình ảnh của tập đoàn Mỹ Boeing và làm dấy lên nghi vấn về mức độ an toàn cho hành khách. Nhiều hãng hàng không dân sự phải cắt giảm các chuyến bay, bị mất khách. Boeing đang cần huy động thêm 10 tỷ đô la trước viễn cảnh sắp phải thanh toán 12 tỷ nợ đáo hạn.
Hôm 26/04/2024, chuyến bay của hãng hàng không Mỹ Delta Airlines nối New York và Los Angeles đã phải quay lại điểm khởi hành, khi phát hiện máy bay mất cầu trượt thoát hiểm. Chiếc Boeing 767 với 176 hành khách và phi hành đoàn đã hạ cánh an toàn. Đó chỉ là sự cố gần đây nhất trong một loạt cố khác trong tháng 3/2024 : khi thì do hỏng kim đồng hồ đo sức gió, lúc thì do hỏng cánh quạt, hay do một mẩu cách bị rơi... Tệ hơn nữa là vụ 5 hành khách bị thương trong một chuyến bay từ Sydney đến Auckland do máy bay mất độ cao. Nhưng hình ảnh khủng khiếp nhất là vụ văng cánh cửa máy bay trên chiếc Boeing 737Max9 của hãng hàng không Alaska Airlines chở theo 171 hành khách từ Portland (bang Oregon) đến Ontario (bang California) hôm 05/01/2024.
Xa hơn nữa, hãng Boeing đã chịu nhiều tai tiếng sau hai tai nạn hàng không năm 2018 và 2019 của hãng Lion Air và Ethiopian Air, làm gần 350 người thiệt mạng. Cả hai cùng sử dụng máy bay dòng 737Max của Boeing.
Khi nhà sản xuất máy bay trao quyền cho giới tài chính
Có nhiều tiếng nói cho rằng hai vụ rớt máy bay nói trên là « điểm khởi đầu » đẩy Boeing vào một cuộc khủng hoảng vô tiền khoáng hậu. Riêng Bruno Trévidic, phụ trách các trang về công nghiệp hàng không của báo Les Echos, cho rằng khủng hoảng này có nguồn gốc sâu xa hơn :
« Theo nhiều nhà quan sát tại Mỹ, khủng hoảng của Boeing khởi đầu từ khoảng năm 1997 khi Boeing mua lại tập đoàn sản xuất máy bay McDonnel Douglas. Đó cũng là thời điểm mà tương quan lực lượng trong buồng lái điều hành tập đoàn Boeing nghiêng hẳn về phía giới tài chính. Họ chiếm đa số trong hội đồng quản trị và từng bước thu hẹp tiếng nói của giới kỹ sư. Đa số cho rằng khủng hoảng của tập đoàn sản xuất máy bay Mỹ Boeing đã kéo dài từ lâu ».
Là đối thủ của Boeing, năm 1997, McDonnel Douglas (chuyên sản xuất từ tên lửa đến máy bay thương mại, quân sự … và hiện diện luôn cả trong ngành hàng không không gian), đã bị mua lại và « cặp đôi » này trở thành « tập đoàn sản xuất máy bay lớn nhất thế giới ». Chưa đầy một chục năm sau, Harry Stonecipher chủ tịch tổng giám đốc Boeing và McDonnel Douglas đã rất tự hào là tập đoàn do ông điều hành được « quản lý như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác, chứ không phải là một hãng chỉ biết thực hiện các dự án công nghiệp ».
Làm sao nên nỗi ?
Harry Stonecipher có thể là đã quên mất rằng ngành hàng không và chế tạo máy bay là một ngoại lệ. Thí dụ như để sản xuất được một chiếc Boeing 737 Max, cần có tới « gần một nửa triệu phụ tùng, do 600 nhà cung cấp khác nhau bán cho Boeing. Bản thân mỗi đối tác trong số đó đều có cả một mạng lưới gia công ở phía sau ». Không dễ mà kiểm soát từng khâu một về chất lượng với nhiều đối tác như vậy.
Đọc thêm : Boeing 737 MAX : Dòng máy bay « xui xẻo »
Nét đặc thù của các tập đoàn công nghiệp chế tạo máy bay là « chất lượng và các chuẩn mực an toàn phải là ưu tiên tuyệt đối ». Bruno Trévidic, báo Les Echos, giải thích cụ thể hơn :
« Ở đây có hai vấn đề. Một là trong những năm gần đây, Boeing đã trao lại cho các tập đoàn gia công một phần lớn các công đoạn sản xuất, nghĩa là trao hẳn cho những công ty khác những gì từng làm nên tên tuổi, uy tín của mình. Điều này từng xảy ra và đã bị chỉ trích khi dòng máy bay 787 gặp một số vấn đề. Khi đó người ta biết rằng 70 % các công đoạn sản xuất Boeing 787 đã được giao cho hãng Spirit Aerosystems.
Sau đó, các cuộc điều tra cho thấy là hãng này đã có nhiều thiếu sót và cuối cùng, Boeing đã quyết định mua lại Spirit Aerosystems, để dễ quản lý hãng gia công cho mình. Trên thực tế, Boeing giao lại cho các hãng gia công một số công đoạn sản xuất cũng chỉ vì muốn giảm thiểu các chi phí trong cuộc chạy đua đi tìm lợi nhuận.
Vấn đề thứ hai là Boeing vừa trải qua một thời gian dài bị tác động của khủng hoảng y tế Covid Trong suốt giai đoạn 2020-2022, dây chuyền sản xuất bị gián đoạn, ngành hàng không dân dụng bị khủng hoảng, Boeing phải cắt giảm nhân sự, tức là để thất thoát chất xám, để mất khá nhiều nhân viên có kinh nghiệm. Khi ngành du lịch và giao thông hàng không hồi phục, các hãng hàng không cần mua thêm máy bay để đáp ứng nhu cầu của thị trường, thì các hãng chế tạo máy bay sản xuất không kịp.
Boeing đã phải tuyển dụng trở lại nhân viên và đó là những người trẻ mới vào nghề. Số này chưa được đào tạo xong và cũng không ý thức được rằng những chuẩn mực an toàn, những chỉ số đo lường về chất lượng quan trọng đến mức độ nào. Họ cũng không được đào tạo để hiểu rằng, trong ngành công nghiệp chế tạo máy bay, công việc đòi hỏi phải thật hoàn hảo ».
Sau các sự cố từ đầu năm đến nay, cổ phiếu của Boeing mất giá 25 % trong bốn tháng đầu năm. Tập đoàn này còn bị Cục Hàng Không Liên Bang Mỹ FAA và Ủy Ban An Toàn Giao Thông Quốc Gia Hoa Kỳ NTSB điều tra và cả hai đã đưa ra những kết luận không mấy thuận lợi cho nhà sản xuất máy bay của Mỹ này. Bruno Trévidic báo Les Echos cho biết :
« Điều tra về mặt kỹ thuật do cơ quan an toàn giao thông Hoa Kỳ NTSB tiến hành kết luận : đã có những sai sót trong khâu lắp ráp cửa máy bay và lỗi đó thuộc về trách nhiệm của Boeing. Sự cố đã xảy ra trong các nhà máy của Boeing ở Renton, nơi cho ra đời gam máy bay 737. Nói cách khác đây là lỗi của Boeing. Cục Hàng Không Liên Bang Mỹ, trong đợt thanh tra gần đây nhất đã tập trung kiểm tra chất lượng sản phẩm của tập đoàn Boeing. FAA chỉ ra rằng Boeing « có vấn đề » ở khâu này, tức là đã lơ là trong việc kiểm tra chất lượng. Boeing cũng thiếu sức thuyết phục trong việc đào tạo nhân sự ».
Ngành hàng không dân sự bị vạ lây
Trước những sự cố liên tiếp và với hệ quả ít nhiều nghiêm trọng nói trên, các hãng hàng không của Mỹ và châu Âu bắt đầu hết kiên nhẫn với Boeing. Hãng hàng không giá rẻ Ryanair dường như bị ảnh hưởng nhiều hơn cả, do hãng này chủ yếu sử dụng máy bay Boeing. Nhẽ ra tháng 3 vừa rồi Ryanair nhận được thêm 57 máy bay Boeing để chuẩn bị cho mùa hè sắp tới, nhưng rồi trong kịch bản tối ưu, tập đoàn Mỹ chỉ có thể giao 4 chiếc cho Ryanair. Hệ quả kèm theo là hãng hàng không giá rẻ của Ireland này phải « giảm số chuyến bay trên 10 lộ trình vào mùa cao điểm tháng 7-8 và 9 ».
Tập đoàn United Airlines của Mỹ thất thu khoảng 200 triệu đô la chỉ vì các máy bay dòng Boeing 737 Max 9 bị giữ lại trên mặt đất trong ba tuần. Delta Airlines cũng không hy vọng từ nay đến năm 2025 có thêm được 100 chiếc máy bay mới để phục vụ hành khách. Về phần mình, tập đoàn Southwest báo trước là « không tuyển dụng thêm phi công và tiếp viên hàng không » cũng vì Boeing.
Với người tiêu dùng, chắc chắn là trong những tháng hè sẽ khó tìm vé máy bay hơn một chút và hành khách phải mua vé đắt hơn.
Boeing vẫn là một ngọn hải đăng
Song còn quá sớm để cho rằng Boeing đang lao xuống vực thẳm. Hiện tập đoàn này có một đội ngũ hơn 60.000 nhân viên, với khoảng 10.000 « con chim sắt » tung bay khắp thế giới. Boeing đã có sẵn đơn đặt hàng với 5.700 máy bay để giao cho các hãng hàng không dân dụng. Trị giá chứng khoán của Boeing là 104 tỷ đô la, tương đương với GDP của Cam Bốt và Miến Điện cộng lại.
Hơn thế nữa, Boeing còn là một ông khổng lồ trong lĩnh vực hàng không quân sự và không gian, với chính phủ Mỹ là khách hàng quan trọng nhất. Hôm 26/04/2024, Boeing vừa mua lại cơ sở của GKN Aerospece tại Saint Louis, bang Missouri, để « tiếp tục cung cấp những phụ tùng thiết yếu và nhạy cảm cho chính phủ Mỹ và các đồng minh của Hoa Kỳ ». Đây là nơi cung cấp phụ tùng và bảo đảm một phần các chương trình chế tạo chiến đấu cơ F/A18 và F-15. Cũng Boeing hôm 29/04/2024 thông báo nhận thêm đơn đặt hàng của Bộ Quốc Phòng cung cấp thêm 7 chiếc trực thăng MH-139A cho Không Quân Hoa Kỳ. Trị giá hợp đồng là 178 triệu đô. MH-139A là loại trực thăng được quân đội sử dụng trong các công tác tuần tra, cứu hộ và tận tải. Chi nhánh Boeing Defence Space &Security là một tên tuổi lớn trong ngành với rất nhiều sản phẩm từ oanh tạc cơ, máy bay vận tải, máy bay tiếp liệu, tên lửa, vệ tinh... …
Tue, 30 Apr 2024 - 169 - Chảo lửa Iran-Israel « chưa bén » đến các giếng dầu Trung Đông
Thị trường dầu hỏa thế giới vẫn ổn định trước mối đe dọa chưa hoàn toàn được dập tắt về một cuộc chiến giữa Israel và Iran. Ưu tiên của Teheran là bảo vệ các giếng dầu cho dù Trung Đông không còn là nguồn cung cấp duy nhất cho thế giới. Vì những tính toán chính trị trước bầu cử tổng thống Mỹ, Washington là « tấm bia đỡ đạn » cho các cơ sở năng lượng của Iran, tránh để khủng hoảng về dầu lửa tái diễn đánh vào túi tiền của cử tri Hoa Kỳ.
Đành rằng giá dầu trên thế giới tăng lên thêm 17 % trong 4 tháng đầu nhưng kể từ khi Israel và Iran trực tiếp khiêu khích lẫn nhau từ đầu tháng 4/2024, thị trường dầu hỏa được coi là vẫn « ổn định ». Giá một thùng dầu vẫn được giữ ở ngưỡng trên dưới 90 đô la một thùng cho đến ngày 23/04/2024.
Xung đột Israel-Hamas tại Gaza từ tháng 10/2023, rồi các đợt tấn công nhắm vào tàu chở hàng trong vùng Hồng Hải do quân nổi dậy Yemen - Houthi tiến hành đã thổi bùng viễn cảnh Trung Đông, giếng dầu của thế giới, bị đẩy gần hơn vào cái bẫy chiến tranh. Căng thẳng trên thị trường năng lượng đã tăng thêm một nấc trước những dấu hiệu xung đột lan rộng khi mà những quyền lợi trực tiếp của Iran bị tổn thương.
Israel oanh tạc tòa đại sứ Iran ở Damas, thủ đô Syria hôm 01/04/2024, rồi hơn một chục ngày sau, Teheran đáp trả « đích đáng » trong đêm 13/04/2024 nhắm vào Israel. Cộng đồng quốc tế lại hồi hộp đợi chính quyền Benjamin Netanyahu « trả đũa » vào lúc ông bị công luận Israel mạnh mẽ chỉ trích « sa lầy ở Gaza ». Một phần thế giới quy trách nhiệm cho Israel về thảm họa nhân đạo nhắm vào hơn 2 triệu người Palestine ở Gaza.
Những yếu tố đe dọa dầu hỏa Trung Đông
Tất cả các nhà quan sát đồng loạt cho rằng,« vì những lý do đối nội, cả Iran lẫn Israel cũng bị dồn vào chân tường ». Trả lời đài phát thanh France Culture hôm 17/04/2024, chuyên gia về dầu hỏa, Francis Perrin, giám đốc nghiên cứu Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược IRIS của Pháp, giải thích về tầm mức « chiến lược của Trung Đông trên bàn cờ năng lượng quốc tế », qua đó một phần chìa khóa tăng trưởng của thế giới đang được đặt trong tay mỗi đối tác tại khu vực này :
« Trung Đông là một khu vực chủ chốt trên bàn cờ dầu hỏa và khí đốt của thế giới. Đây là nơi cất giữ 50 % trữ lượng dầu đã được chứng minh và 40 % khí đốt trên trái đất. Trung Đông cũng là nơi sản xuất và xuất khẩu một phần lớn năng lượng cho nhân loại. Năm ông khổng lồ dầu hỏa trên thế giới đều tập trung cả ở khu vực này, theo thứ tự là Ả Rập Xê Út, Iran, Irak, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất và Koweit. Hai nguồn cung khí đốt lớn nhất là Iran và Qatar cũng ở cả Trung Đông. Do vậy, nếu như xảy ra căng thẳng trong khu vực, đương nhiên là thị trường dầu hỏa rất dễ bị khuấy động ».
Song có nhiều khác biệt ở thời điểm hiện nay so với thập niên 1970-1980 : Trung Đông không còn độc quyền cung cấp dầu hỏa cho thế giới và cỗ máy công nghiệp của các nước phát triển nhất bớt lệ thuộc vào vàng đen. Francis Perrin, viện nghiên cứu Pháp IRIS :
« Nhờ có dầu và khí đá phiến mà Hoa Kỳ nay đã trở thành nguồn xuất khẩu số 1 trên thế giới, cả về dầu hỏa lẫn khí đốt. Tức là Mỹ đã qua mặt cả Ả Rập Xê Út và Nga để thống lĩnh hai thị trường này. Đây là một thay đổi chưa từng có. Ở thời kỳ chiến tranh Kippour những năm 1973-1974 nhân loại chưa biết khai thác dầu và khí đá phiến. Ngoài ra, giờ đây Canada cũng đã trở thành một nguồn cung cấp quan trọng của thế giới, đứng hạng thứ tư. Thành thử thế giới có những nguồn cung cấp khác và không còn bị phụ thuộc vào một mình Trung Đông. Dù vậy thế cân bằng trên thị trường năng lượng tùy thuộc vào Trung Đông. Đương nhiên là nếu tình hình trong vùng xấu đi và tác động trực tiếp đến các hoạt động trong ngành dầu khí, thì lập tức giá dầu hỏa và khí đốt bị biến động… »
Tính toán khôn ngoan của Teheran
Trong cuộc chiến giữa các nước Ả Rập và Nhà nước Do Thái - Chiến tranh Kippour hồi năm 1973, nhiều nước Ả Rập đã manh tay ngừng xuất khẩu dầu cho phương Tây, nền công nghiệp số 1 toàn cầu khi đó là Hoa Kỳ khốn đốn. Trong thời gian từ tháng 10/1973 đến tháng 1/1974, giá dầu đã nhân lên gấp 4 lần.
Đến những năm 1979-1980, sau cuộc cách mạng Hồi Giáo Iran, thêm vào đó là 8 năm chiến tranh Iran-Irak (1980-1988), nhiều tàu dầu đã bị tấn công trong vùng Vịnh … giá dầu lại bị đẩy lên cao.
Hai « cơn sốt dầu hỏa » thập niên 1970-1980 khép lại thời kỳ vàng son của các nền công nghiệp trên thế giới vốn rất phụ thuộc vào « vàng đen » của Trung Đông. Kinh nghiệm đó vẫn còn ám ánh chính giới hiện nay. Francis Perrin viện IRIS của Pháp phân tích :
« Điều rõ ràng là ở thời điểm 2024, Trung Đông vẫn chiếm một vi trí then chốt thị trường dầu khí. Khu vực này đang phải đối mặt với ba cuộc xung đột khác nhau : ở Syria từ 2011, ở Yemen từ 2015 và gần đây nhất là tại Gaza. Đương nhiên là giới giao dịch trên thị trường, chính giới và các nhà ngoại giao không ai muốn một cuộc xung đột thứ tư nổ ra trong vùng. Nếu như xảy ra xung đột giữa Israel và Iran thì cuộc chiến này sẽ nguy hiểm hơn cả ba cuộc xung đột hiện nay rất nhiều ».
Thêm một lo ngại khác liên quan đến nguy cơ eo biển Ormuz bị phong tỏa, bị một trong các bên giao tranh « quân sự hóa ». Eo biển này là cửa ngõ đưa 20 -30 % dầu hỏa và khí đốt của Trung Đông ra thế giới. Theo thẩm định của cơ quan tư vấn về năng lượng Rapidan Energy của Mỹ, eo biển Ormuz bị rối loạn, « giá dầu lập tức tăng thêm 10 % ».
Nhưng không lo Iran đóng cửa eo biển Ormuz vì tháng 3/2024 Teheran thông báo đầu tư 13 tỷ đô la trong thập niên sắp tới vào 6 mỏ dầu ở các khu vực phía nam và tây nam, để nâng cao sản xuất, vị trí then chốt của Iran trên bàn cờ năng lượng. Francis Perrin viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược Pháp :
« Syrie chỉ là một chú lùn về dầu hỏa, Yemen cho đến trước chiến tranh, tuy có sản xuất dầu và xuất khẩu khí đốt nhưng cũng không đáng kể. Gaza và Israel cùng không xuất khẩu dầu. Thế nhưng Iran là một cường quốc cả về dầu hỏa lẫn khí đốt. Đành rằng từ năm 2018 chính quyền Trump đã siết chặt thêm cấm vận dầu không cho Teheran xuất khẩu để thu vào ngoại tệ. Mỹ muốn bóp nghẹt kinh tế Iran, nhưng các biện pháp trừng phạt đó chưa bao giờ được áp dụng nghiêm ngặt. Chính quyền Biden từ năm 2021 vẫn duy trì các biện pháp cấm vận dầu của Iran, nhưng cũng không quá sốt sắng trong việc giám sát các hoạt động mua bán dầu của Teheran. Thành thử trong thời gian qua, Iran vẫn thu về ngoại tệ nhờ xuất khẩu dầu hỏa cho một số đối tác. Do vậy nếu xảy ra xung đột với Israel, Iran sẽ mất mát nhiều ».
Washington, lá bùa hộ mạng cho các giếng dầu Iran
Vì quyền lợi của chính mình, Iran sẽ không dại lao vào một cuộc đối đầu vũ trang quyết liệt với Israel hay đóng cửa eo biển Ormuz. Nhưng về phía Tel Aviv, giới quan sát cho rằng giải pháp quân sự ở Gaza hay với « kẻ thù không đội trời chung » Iran là lá bùa hộ mạng cho sự nghiệp chính trị của thủ tướng Benjamin Netanyahu. Do vậy, lo ngại thứ ba là nếu như Israel tấn công các cơ sở công nghiệp dầu khí của Iran thì có thể đẩy giá dầu lên cao. Nhưng trước mắt, kịch bản này đã không xảy ra nhờ áp lực của Mỹ.
Iran có khối lượng dự trữ dầu lớn thứ ba trên thế giới, và bất chấp các lệnh trừng phạt liên tiếp của Hoa Kỳ năm 2022, Cộng Hòa Hồi Giáo Iran, đứng hàng thứ 7 trong số các nguồn cung cấp dầu, bảo đảm 3 % nhu cầu tiêu thụ cho thế giới. Francis Perrin, viện IRIS, nhấn mạnh đến yếu tố Hoa Kỳ trong năm bầu cử tổng thống vào lúc mà giá một gallon xăng ở Mỹ hiện vẫn còn đắt hơn đến 60 % so với hồi năm 2020 :
« Chính quyền Biden không muốn trông thấy giá dầu bị đẩy lên cao, vì như vậy có nghĩa là người Mỹ sẽ phải chi ra nhiều tiền để mua xăng. Ra tranh cử thêm một nhiệm kỳ tổng thống, ông Biden biết là sẽ gặp khó khăn trong trường hợp này và công luận Mỹ dễ bị ảnh hưởng vì giá xăng dầu. Nhà Trắng không muốn Israel tấn công vào các cơ sở năng lượng của Iran, nhưng tại Israel và Mỹ thì một số tiếng nói lại muốn kịch bản đó xảy ra ».
Đe dọa thị trường tiêu thụ bão hòa
Cho đến ngày 23/04/2024, có thể nói là thị trường dầu hỏa thế giới đã « không bùng cháy »sau khi Iran lẫn Israel đều đã« trả đũa đối phương »và cùng có dấu hiệu muốn dừng lại, tránh đẩy Trung Đông vào thế nguy hiểm hơn.
Đương nhiên, giới trong ngành cho rằng trên thị trường dầu hỏa « ngọn lửa có thể được thổi bùng lên bất cứ lúc nào ».Các nhà môi giới tạm an tâm trước một số những « chốt an toàn » : một là Mỹ đã trở thành nguồn sản xuất dầu số 1 thế giới, hơn cả Ả Rập Xê Út hay Nga ; hai là Teheran hiểu ý của Hoa Kỳ nên đang tận dụng thời cơ phát triển ngành công nghiệp dầu hỏa. Thứ ba là bản thân các « ông lớn trên bàn cờ năng lượng Trung Đông, từ Ả Rập Xê Út đến Qatar hay Các Tiểu Vương Ả Rập Thống Nhất đều muốn tập trung phát triển kinh tế ».
Các quốc gia này biết là không còn độc quyền và Mỹ đang nổi lên như một đối thủ cạnh tranh « rất lợi hại ». Cuối cùng, điều khiến giới trong ngành, từ các cơ quan môi giới trên thị trường, đến các nhà sản xuất ở Trung Đông lo ngại hơn cả hiện nay, có lẽ là viễn cảnh tăng trưởng của Trung Quốc, của Liên Hiệp Châu Âu bị chựng lại, và những chuyển biến trên thị trường quốc tế từ chiến tranh Ukraina gây nên.
Nhìn đến nước Nga, một cột trụ khác trên thị trường năng lượng, dầu khí của Nga đang bị cấm vận, giảm mạnh lượng xuất khẩu sang châu Âu nên các tập đoàn dầu khí của Nga đã lao vào một cuộc chạy đua đi tìm những thị trường mới… và Matxcơva là một thành viên khá độc lập trong khối OPEP mở rộng. Tựu chung, một trong những lý do vì sao thị trường dầu hỏa chưa lên cơn sốt, là các nguồn cung thì nhiều, mà không chắc là mức cầu sẽ vững mạnh trong ngắn hạn.
Tue, 23 Apr 2024 - 168 - Thách thức Nhật Bản trở thành một « cường quốc công nghiệp vũ khí »
Kết thúc tuần lễ công du Hoa Kỳ, thủ tướng Nhật ra về với khoảng 70 thỏa thuận hợp tác quốc phòng, hoàn thành mục tiêu đưa quan hệ song phương lên hàng « đối tác toàn diện về kinh tế, kỹ thuật và an ninh ». Mở rộng quan hệ quốc phòng với Mỹ là đòn bẩy cho ngành công nghiệp quốc phòng của Nhật vốn đang bị Trung Quốc bỏ xa lại phía sau. Bắc Kinh đứng trước thách thức Tokyo trở thành một nhà máy sản xuất, một kho vũ khí ngay sát cạnh.
Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida vừa kết thúc chuyến công du Hoa Kỳ từ ngày 10 đến 13/04/2024. Giới quan sát phương Tây đồng loạt đánh giá đây là một chuyến đi lịch sử với hai cột mốc quan trọng là thượng đỉnh song phương tổng thống Mỹ Joe Biden và cuộc họp tay ba với nguyên thủ Hoa Kỳ và tổng thống Philippines, Ferdinand Marcos Jr. tại Nhà Trắng.
Lần đầu tiên từ Thế Chiến Thứ Hai, Mỹ-Nhật thắt chặt hợp tác quốc phòng « chặt chẽ » chưa từng thấy. Trong những tuần lễ sắp tới Lầu Năm Góc cùng với các bộ Quốc Phòng và Công Nghiệp Nhật Bản đi sâu thêm vào chi tiết cụ thể các chương trình hợp tác, song báo chí tại Washington và Tokyo nói đến « khoảng 70 thỏa thuận hợp tác quốc phòng » đã được thông qua.
Viễn cảnh Nhật sản xuất vũ khí cạnh Trung Quốc
Những thỏa thuận nói trên xoay quanh ba trục : Ưu tiên « nâng cao hiệu quả khả năng tương tác » giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản, nghĩa là để các đơn vị của Mỹ tại Nhật Bản bớt phụ thuộc vào bộ tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ đặt tại Hawaii, cách thủ đô Tokyo đến 6.000 cây số.
Trục thứ nhì là tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực an ninh mạng và chiến lược bảo vệ các cơ sở hạ tầng thiết yếu.
Vế thứ ba liên quan đến hợp tác trong ngành công nghiệp quốc phòng hai nước. Washington và Tokyo cam kết « cùng nhau phát triển, sản xuất tên lửa, cùng nhau bảo trì chiến hạm và máy bay quân sự của Mỹ tại Nhật Bản ». Ngành công nghệ quốc phòng của hai nước « phối hợp chặt chẽ với nhau hơn » ở nhiều khâu, từ nghiên cứu khoa học kỹ thuật đến khả năng sản xuất những thiết bị trong công nghệ không gian phục vụ cả các mục tiêu dân sự và quân sự… Kết hợp với Mỹ, Nhật Bản khai thác những thế mạnh của mình để trở thành một nguồn sản xuất và cung cấp vũ khí trên thế giới- kể cả cho Hoa Kỳ.
Trả lời RFI Việt ngữ, nhà báo Pierre Antoine Donnet nói đến một thỏa thuận có lợi cho cả đôi bên. Ông Donnet từng điều hành các văn phòng của hãng tin Pháp AFP tại Bắc Kinh và Tokyo, và hiện là một cây bút chính của báo mạng chuyên về châu Á, Asialyst :
Pierre Antoine Donnet: « Một trong những vế chính của hàng loạt những thỏa thuận quốc phòng song phương là Mỹ -Nhật cùng nhau sản xuất các loại vũ khí thế hệ mới. Đây là điều hoàn toàn mới mẻ đối với cả Washington lẫn Tokyo. Hợp tác quân sự lại càng khắn khít hơn khi đôi bên đồng ý nâng cấp cơ chế chỉ huy quân sự của Mỹ tại Nhật, với một mục đích rõ ràng là đối phó với hiểm họa Trung Quốc. (...)
Tôi nghĩ rằng lợi ích ở đây là cả đối với hai phía Hoa Kỳ và Nhật Bản. Hiện tại, nền công nghiệp quốc phòng của Nhật chậm phát triển hơn nhiều so với của Trung Quốc và còn kém cỏi so với một số quốc gia khác nữa. Trái lại, đội ngũ kỹ sư của Nhật được đào tạo và có chuyên môn rất cao. Từ nhiều thập niên qua Nhật Bản luôn dẫn đầu về công nghệ mới. Thành thử khi mà Mỹ, Nhật hợp tác với nhau để cùng chế tạo thiết bị quân sự hay vũ khí thì hai nền công nghiệp này sẽ bổ sung cho nhau, họ sẽ nhanh chóng sản xuất được nhiều và với giá rẻ. Thêm một lợi thế khác nữa là vũ khí sẽ sản xuất trên lãnh thổ Nhật Bản. Điều này cho phép nền công nghiệp quốc phòng của Nhật nhanh chóng phát triển và có nhiều tiến bộ trong một thời gian ngắn. Nói cách khác đây là một thỏa thuận có lợi cho cả đôi bên ».
Đành rằng trong thông cáo chung, tổng thống Biden và thủ tướng Kishida cùng nhấn mạnh chủ đích của đôi bên là « tăng cường khả năng răn đe », để bảo đảm Ấn Độ-Thái Bình Dương là một vùng biển « tự do và rộng mở trước những thách thức ngày càng lớn đối với an ninh khu vực ». Nhà báo Pierre Antoine Donnet mục tiêu răn đe đó của Hoa Kỳ và Nhật Bản trực tiếp nhắm vào Trung Quốc.
Pierre Antoine Donnet : « Trong những ngày vừa qua chúng ta thấy rõ tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida cùng quyết tâm thiếp lập một liên minh quân sự càng lúc càng chặt chẽ giữa hai quốc gia đồng minh này và cùng với một số nước khác trong vùng Châu Á-Thái Bình Dương để cưỡng lại áp lực đang lớn mạnh từ phía Trung Quốc. Áp lực đó ngày càng rõ nét để trở thành một mối đe dọa về mặt quân sự. (...)
Một trong những người đầu tiên chủ trương tái vũ trang Nhật Bản là cố thủ tướng Shinzo Abe và như đã biết, ông đã bị ám sát hồi năm 2022. Giờ đây thủ tướng đương nhiệm, Fumio Kishida, khẳng định rằng mối đe dọa xuất phát từ Trung Quốc đã lớn đến mức mà Nhật Bản cần nhanh chóng hiện đại hóa quân đội để có thể đối phó trong trường hợp xảy ra xung đột vũ trang. Chính ông Kishida quyết định đẩy ngân sách quốc phòng của Nhật đang từ 1 % GDP lên thành 2 % trong một thời gian rất ngắn và đây là điều chưa từng xảy ra tại một quốc gia có bản Hiến Pháp chủ hòa như ở Nhật từ khi kết thúc Thế Chiến Thứ Hai năm 1945 ».
Từng công tác lâu năm tại Bắc Kinh và Tokyo, Pierre Antoine Donnet không quên yếu tố Philippines trong những tính toán của cả Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản như đã được ghi nhận nhân thượng đỉnh ba bên Mỹ-Nhật và Philippines hôm 11/04/2024 vừa qua :
Pierre Antoine Donnet: «Thực ra thượng đỉnh ba bên Mỹ-Nhật và Philippines quan trọng không kém, vì Biển Đông trải rộng trên diện tích khoảng 4 triệu cây số vuông là nơi mà Trung Quốc không ngừng phô trương thanh thế, lắp đặt các cơ sở quân sự… Đây là một khu vực quan trọng bậc nhất về mặt địa chính trị và là một ngả giao thương quốc tế, mà hàng tỷ đô la hàng hóa đi qua. Những hành vi hù dọa, uy hiếp tàu thuyền Philippines từ hơn một tháng nay là nhằm thị uy, để Manila tách rời khỏi Washington và công nhận Trung Quốc là ông chủ trong vùng biển này. Qua đó Philippines phải thuần phục Bắc Kinh, thuần phục đảng Cộng Sản Trung Quốc »..
Chiến lược phát triển công nghiệp vũ khí của Nhật
Để trở thành « đối tác toàn diện về kinh tế, kỹ thuật và an ninh » của Hoa Kỳ, Nhật Bản đã có những bước chuẩn bị dài hơi : tháng 12/2023 chính quyền Fumio Kishida thông qua ngân sách quốc phòng hơn 50 tỷ đô la cho giai đoạn 2024-2025, tăng 17 % so với một năm trước đó.
Tokyo từ 2022 trong hai tài liệu về Chiến Lược Quốc Phòng và Chiến Lược An Ninh Quốc Gia đã đề ra mục tiêu dành đến 2 % GDP cho các chi phí quân sự mà chủ yếu là « tăng tốc hiện đại hóa quân đội » như vừa nói có nghĩa là, thiết kế tàu chiến thế hệ mới, trang bị hệ thống tên lửa chống hạm Aegis của Mỹ, tăng cường khối lượng dự trữ tên lửa, mua thêm tên lửa hành trình Tomahawk của Mỹ, phát triển hệ thống phòng không chống tên lửa siêu thanh... Tokyo cũng dành hẳn nhiều ngân sách cho các vế sản xuất drone, mở rộng các hoạt động về an ninh mạng và mảng « công nghệ không gian phục vụ các mục tiêu quân sự ».
Nhà nghiên cứu Marianne Péron Doise, chuyên về an ninh biển ở khu vực Đông Bắc Á trường Khoa Học Chính Trị Sciences Po. Paris lưu ý, Nhật Bản là một quốc gia duy nhất trên thế giới quyết định « tăng chi phí quốc phòng tương đương với 1 % GDP lên thành 2 % tổng sản phẩm nội địa trong vỏn vẹn 5 năm ». Đó là yếu tố đầu tiên khiến Mỹ rất hài lòng.
Hơn nữa, do cuộc chiến Ukraina, Tokyo đã nới lỏng một số nguyên tắc cho phép chuyển giao thiết bị quân sự, chuyển giao công nghệ quốc phòng cho một số quốc gia. Từ 2014 Nhật Bản đã bắt đầu xuất khẩu thiết bị quân sự với điều kiện đó không là vũ khí sát thương, nhưng đến cuối 2023 thì danh sách hàng được xuất khẩu trong lĩnh vực này đã được mở rộng thêm và bao gồm cả 80 « loại vũ khí và thiết bị sát thương, 13 quốc gia được giao dịch với các tập đoàn Nhật Bản trong lĩnh vực này ». Hãng tin Kyodo khẳng định « Nhật Bản, tựa như Hoa Kỳ hay Pháp muốn trở thành một nguồn xuất khẩu vũ khí trên thế giới và đây sẽ là một bước ngoặt lịch sử »
Những thay đổi nói trên vừa là cơ sở vừa là cơ hội cho các chương trình hợp tác tập đoàn công nghiệp quốc phòng của Mỹ và Nhật Bản.
Ẩn số về tiềm lực của mạng lưới công nghiệp Nhật Bản
Câu hỏi còn lại là liệu rằng các tập đoàn công nghiệp của Nhật như Toshiba, Mitsubishi Electric hay Subaru, Daikin có đủ sức và dễ dàng chấp nhận lao vào cuộc chơi cộng tác rồi cạnh tranh với những « ông lớn » trong ngành như Lockheed Martin của Mỹ hay BAE Systems PLC của Anh hay không ?
Theo một điều tra của Reuters (26/03/2023) nếu như trong nhiều thập niên qua các tập đoàn nói trên, với tên tuổi rất quen thuộc với người tiêu dùng, đã « kín đáo trang bị cho lực lượng phòng vệ Nhật Bản, tăng công suất để trở thành những con chim đầu đàn trong lĩnh vực xuất khẩu vũ khí không là chuyện dễ vì số này sợ rằng sẽ mất đi cảm tình của người tiêu dùng bình thường tại một quốc gia mà công luận có khuynh hướng chủ hòa. Một nhà báo độc lập tại Tokyo được báo The Diplomat hôm 10/04/2024 trích dẫn lo ngại về khả năng sản xuất của các tập đoàn công nghiệp Nhật Bản vừa phục vụ các mục tiêu dân sự và quân sự có hạn.
Thí dụ như Mitsubishi Heavy Industries sản xuất máy bay phản lực và tên lửa để răn đe Trung Quốc nhưng hoạt động chính của tập đoàn này là chế tạo động cơ máy bay dân sự và trang thiết bị cho các nhà máy điện, sản xuất máy móc cho các dây chuyền lắp ráp xe ô tô … Các hợp đồng với chính phủ Nhật chỉ chiếm « 10 % doanh thu của đại công ty này ».
Không chắc các thỏa thuật phát triển vũ khí chung với Mỹ mà thủ tướng Fumio Kishida vừa đạt được nhanh chóng cho phép đảo ngược thế cờ.
Phản ứng của Bắc Kinh ?
Dù vậy nhìn từ Bắc Kinh, viễn cảnh Nhật Bản và Mỹ hợp tác để trở thành những nguồn cung cấp vũ khí cho thế giới, viễn cảnh tên lửa hiện đại hay các hệ thống phòng thủ chống tên lửa siêu thanh sắp ra đời ngay trên lãnh thổ Nhật Bản gần sát Trung Quốc không là một điềm lành.
Đây sẽ là một yếu tố mới gây thêm hiềm khích giữa Tokyo và Bắc Kinh, nhất là vào thời điểm mà kinh tế Nhật Bản thì đã nhanh chóng phục hồi sau đại dịch Covid, các chỉ số chứng khoán của Tokyo đi từ kỷ lục này đến kỷ lục khác. Trái lại không khí trên các sàn chứng khoán Trung Quốc vẫn khá ảm đạm.
Do vậy giới phân tích chờ đợi Trung Quốc sẽ đẩy mạnh đầu tư nhằm tăng cường tiềm năng công nghiệp quốc phòng để vẫn giữ được thế thượng phong so với các tập đoàn của Nhật, để không bị ảnh hưởng vì chiến thuật « răn đe » từ phía các đồng minh của Hoa Kỳ.
Tue, 16 Apr 2024 - 167 - Trung Quốc dùng công cụ tiền tệ cuối cùng để cứu vãn kinh tế ?
Tăng trưởng chậm tại và khủng hoảng địa ốc kéo dài khiến Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc liên tục giảm lãi suất, "bơm thêm" thanh khoản để khuyến khích tiêu thụ và đầu tư. Những biện pháp "truyền thống" dường như chưa đủ mạnh. Bắc Kinh cân nhắc sử dụng đến "công cụ tiền tệ cuối cùng" để cứu vãn tình hình.
« Mua lại công trái phiếu » của chính phủ là gì ? Hiệu quả đến đâu và tại sao giới trong ngành thận trọng với « công cụ tiền tệ này »ngay cả khi đã được chủ tịch Trung Quốc đã gợi ý ? RFI tiếng Việt mời chuyên gia về tiền tệ và ngân hàng, Victor Lequillerier, đồng sáng lập viên cơ quan tư vấn BSI Economics, Paris, trả lời các câu hỏi trên.
Nhật báo Hồng Kông ngày 28/03/2024 nhắc lại tuyên bố từ tháng 10/2023 của ông Tập Cận Bình là « cần sử dụng triệt để hơn và mở rộng các công cụ tiền tệ », đã đến lúc « Ngân Hàng Trung Ương từng bước mở rộng các khoản giao dịch công trái phiếu trên thị trường mở ». Từ đó đến nay, chỉ thị này vẫn chưa được chấp hành. Thống đốc Phan Công Thắng (Pan Gongsheng) vẫn chưa mua vào công trái của chính phủ. Nhưng theo giới quan sát đấy chỉ là vấn đề thời gian, bởi Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc đang chịu áp lực rất lớn để phải tính đến giải pháp đã « không được sử dụng từ hơn 20 năm qua ».
Thiếu thanh khoản hay khối lượng tiền lưu hành tăng không đủ nhanh ?
Trên đài RFI Việt ngữ, Victor Lequillerier ngạc nhiên về đề nghị của ông Tập Cận Bình đòi Ngân Hàng Trung Ương sử dụng một công cụ « gây nhiều tranh cãi » trong chính sách tiền tệ của Trung Quốc. Nhưng trước hết, đồng sáng lập viên cơ quan tư vấn BSI Economics, Paris phân tích vì sao báo chí Trung Quốc nhắc lại gợi ý của ông Tập từ mùa thu 2023.
Victor Lequillirier : « Phải đặt lại bối cảnh tuyên bố này. Thực ra đề xuất đã được ông Tập Cận Bình nêu lên từ hồi tháng 2023 nhưng từ đó đến nay Ngân Hàng Trung Ương không tỏ ra mặn mà. Vả lại, tình hình kinh tế Trung Quốc hiện tại có vẻ khả quan hơn. Tháng 10 năm ngoái, tăng trưởng bị chựng lại ; Trung Quốc bị đặt trước nguy cơ bị giảm phát ; đầu tư tăng rất chậm và đó cũng là thời điểm người ta hoài nghi về khả năng thanh toán và khả năng đi vay thêm tín dụng của một số chính quyền cấp tỉnh, cấp địa phương. Sau khóa họp Quốc Hội vào tháng 3/2024 Bắc Kinh đề ra mục tiêu 5 % tăng trưởng cho năm nay. Mục tiêu đó chỉ đạt được nếu như chính quyền trung ương tăng ngân sách chi tiêu để kích cầu (…).
Sở dĩ giờ đây báo chí Trung Quốc nhắc lại tuyên bố này của ông Tập, có lẽ công luận thực sự lo ngại là tình trạng tài chính của nền kinh tế thứ hai toàn cầu đang xấu đi và vì nên vậy phải kết hợp cùng lúc hai công cụ để vực dậy kinh tế. Nghĩa là vừa phải tăng ngân sách vừa phải nới rộng các chính sách tiền tệ và phải tích cực hơn trong nỗ lực vận dụng cả hai công cụ này».
Nhưng về cơ bản « mua lại công trái phiếu là gì » và trong trường hợp của Trung Quốc, giải pháp đó có hiệu quả hay không ?
Victor Lequillerier : « Áp dụng biện pháp đó có nghĩa là Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc trực tiếp hoặc gián tiếp can thiệp để thúc đẩy kinh tế. Ngân Hàng Trung Ương không bơm thêm tiền để làm tăng mức nợ công của nhà nước hay của các chính quyền địa phương. Định chế này chỉ mua lại công trái phiếu nhà nước phát hành và có thể là chúng đang do các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư … hay các chính quyền địa phương nắm giữ.
Trong trường hợp của Trung Quốc có nghĩa là chính sách tiền tệ sẽ có hiệu quả lớn hơn, một khi mà những ai đang nắm giữ công trái phiếu được bảo đảm rằng, ở bất kỳ thời điểm nào, chúng cũng có thể được hoán chuyển thành tiền mặt. Điều đó có nghĩa là lãi suất chỉ đạo ngân hàng sẽ lại càng được giảm xuống, qua đó những lãi suất tín dụng khác cũng giảm xuống theo …. Câu đặt ra là liệu rằng biện pháp mua lại công trái phiếu có thích hợp với trường hợp của Trung Quốc hiện nay hay không ? Tôi nghĩ là không : bởi vì Ngân Hàng Trung Ương vẫn còn nhiều công cụ có thể sử dụng được trước khi cần phải mua lại công trái phiếu».
Chưa cần đến giải pháp cuối cùng
Mua lại công trái phiếu cho phép nới lỏng định lượng ngân hàng, qua đó giảm lợi suất trái phiếu và kích thích kinh tế nhưng đối với Trung Quốc, thì thứ nhất là lãi suất đã được giữ ở mức thấp và thứ hai là như chuyên gia về tài chính ngân hàng của Pháp Victor Lequillerier vừa giải thích Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc vẫn còn nhiều lá chủ bài trong tay trước khi phải sử dụng đến đòn mua lại công trái phiếu như ông Tập Cận Bình đề xướng. Đồng sáng lập viên cơ quan tư vấn BSI Economics cho rằng trước mắt Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc chưa sử dụng hết tất cả những công cụ có sẵn trong tay :
Victor Lequillerier :« Những công cụ đó thông thường là các loại lãi suất ngân hàng, với một vài nét hơi đặc biệt của Trung Quốc. Tôi muốn nói đến lãi suất LPR, tức là lãi suất cho vay cơ bản. Ở Trung Quốc LPR có thời hạn 5 năm được xem là một lãi suất để tham khảo và từ đó ấn định lãi suất thế chấp trên thị trường. Ngoài ra còn có những công cụ tài chính khác như các khoản giao dịch Repo và Reverse Repo để những ai đang nắm giữ cổ phiếu hoặc công trái phiếu dễ dàng bán đi với cam kết là sẽ mua lại chúng trong một thời hạn nhất định với giá cao hơn so với giá đã bán ra ban đầu. Biện pháp này cho phép nhanh chóng huy động tiền mặt.
Công cụ thứ ba là lãi suất cho vay trung hạn MLF. Cuối cùng, Ngân Hàng Trung Ương vừa có thể điều chỉnh các loại lãi suất ngân hàng như đã nói, vừa có thể điều chỉnh mức dự trữ bắt buộc của các ngân hàng. Hạ thấp khoản dự trữ bắt buộc cho phép ngân hàng dễ dàng mở van tín dụng, cấp thêm vốn cho tư nhân, cho các chính quyền địa phương để thúc đẩy kinh tế. Vậy tại sao lại phải sử dụng đến chính sách « mua lại công trái phiếu » ? Trên nguyên tắc, mua lại công trái phiếu là liều thuốc sau cùng, khi « đã hết thuốc chữa ». Tuy nhiên tình trạng của Trung Quốc không tuyệt vọng đến như vậy bởi vì Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc vẫn có thể tiếp tục hạ lãi suất để kích cầu».
Coi chừng lợi bất cập hại
Đề xuất của ông Tập Cận Bình là con dao hai lưỡi. Một mặt biện pháp này cho phép kích cầu nhờ lãi suất chỉ đạo ngân hàng được hạ xuống thấp. Mặt khác, lãi suất thấp cũng có nhiều bất lợi cho Trung Quốc nhất là khi mà suất ngân hàng ở Mỹ, châu Âu đang tăng lên cao. Đồng nhân dân tệ bị mất giá và vốn đầu tư ngoại quốc có khuynh hướng « chạy » sang nơi khác với hy vọng kiếm lời cao hơn.
Ngoài ra Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc thận trọng với giải pháp của ông Tập Cận Bình do biện pháp mua vào công trái phiếu sẽ thổi nên những quả bóng đầu cơ khác và đó là điều Ngân Hàng Trung Ương không muốn xảy ra.
Câu hỏi cuối cùng : giải pháp huy động Ngân Hàng Trung Ương mua lại công trái phiếu có cho phép kích thích tăng trưởng của Trung Quốc và ngăn chận hiện tượng chảy máu đầu tư trực tiếp nước ngoài khỏi Hoa Lục hay không ?
Victor Lequillerier : « Ở đây có hai vấn đề : quyết định của ông Tập là nhằm tăng cường mọi khả năng để hạ lãi suất ngân hàng và bảo đảm rằng mọi tác nhân trong chuỗi kinh tế của Trung Quốc không sợ bị thiếu thanh khoản, bởi đã có Ngân Hàng Trung Ương đứng ra bảo đảm. Hệ quả kèm theo là các chính quyền địa phương có thể huy động thêm vốn để tiếp tục tài trợ các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong trường hợp cần thiết, họ được trung ương, qua vai trò của Ngân Hàng Trung Ương cung cấp tiền mặt. Nói cách khác các cấp tỉnh, cấp vùng có phương tiện để đạt mục tiêu tăng trưởng 5 % như trung ương đã đề ra. Nhưng bên cạnh đó biện pháp này không giúp giải quyết vấn đề Trung Quốc đang để thất thoát đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hoa Lục giảm mạnh là do những chính sách kinh tế của Bắc Kinh, do môi trường cạnh tranh bất lợi cho doanh nghiệp ngoại quốc.... Thành thử biện pháp mua vào công trái phiếu không giúp Bắc Kinh đảo ngược thế cờ và lôi kéo trở lại các nguồn đầu tư của quốc tế vào Trung Quốc».
Bên cạnh những phân tích thuần túy mang tính kỹ thuật của ngành ngân hàng đó, giới nghiên cứu cũng lưu ý rằng : Bắc Kinh đang đi tìm một « mô hình kinh tế mới »với « những mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng » có nghĩa là vừa phải « ổn định được những gì đang đem lại tăng trưởng cho Trung Quốc từ trước đến nay » (như bất thị trường nhà đất, như các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng) đồng thời phải « ồ ạt đầu tư vào các mảng công nghệ mới » (trong số này bao gồm từ trí tuệ nhân tạo đến công nghiệp sản xuất xe ô tô điện hay pin mặt trời …).
Trung Quốc ý thức được rằng lĩnh vực địa ốc, có trọng lượng tương đương với gần 1/3 tổng sản phẩm nội địa trong ba năm liên tiếp cần phải được hồi sinh. Các giới chức chính trị và kinh tế ở Bắc Kinh hiểu rõ hơn ai hết là đầu tàu tăng trưởng của Trung Quốc trong những năm sắp tới không phải là sản xuất hàng may mặc hay máy tính điện tử và kể cả những tấm pin mặt trời mà là những trang thiết bị viễn thông thế hệ mới, là bí quyết làm chủ trí tuệ nhân tạo … do vậy Trung Quốc cần rất nhiều vốn trong giai đoạn chuyển đổi sang một nền công nghệ của tương lai.
Để bảo đảm tăng trưởng cho cả các lĩnh vực truyền thống và tương lai đó mà Trung Quốc cần huy động nhiều vốn tối đa và trong thời gian ngắn nhất. Có lẽ đấy mới là chủ đích khi ông Tập huy động Ngân Hàng Trung Ương mở rộng chính sách tiền tệ.
Tue, 09 Apr 2024 - 166 - Dịch vụ điện toán - digital của Pháp : Atos, con chim đầu đàn gẫy cánh
Hơn 100 ngày trước lễ khai mạc Olympic Paris 2024, tập đoàn Pháp Atos, một trong những cột trụ bảo đảm các dịch vụ điện toán, an toàn cho môi trường digital của sự kiện thể thao trọng đại nhất toàn cầu, rơi vào tâm bão. Atos mất đến 97 % trị giá trên các sàn chứng khoán trong 4 năm và có đúng 4 tháng để huy động 3,5 tỷ euro thanh toán nợ đáo hạn.
Công ty Atos bảo đảm các dịch vụ máy tính cho các nhà máy điện hạt nhân và quản lý, cất giữ các dữ liệu hành chính liên quan đến gần 70 triệu dân Pháp. Chính phủ kỳ vọng vào con chim đầu đàn về tin học này để phát triển trí tuệ nhân tạo, để độc lập với công nghệ digital của Mỹ, để bảo mật các dữ liệu « nhậy cảm » về an ninh, đề phòng những hoạt động phi pháp từ các toán tin tặc, nhất là của Nga, Trung Quốc hay Iran, Bắc Triều Tiên.
Olympic Paris 2024 không chỉ là sân chơi cho các vận động viên quốc tế tranh tài. Đây còn là tủ kính để các tập đoàn công nghệ số hàng đầu thế giới cạnh tranh. Thế Vận Hội cũng là đấu trường giữa các công ty bảo vệ an ninh mạng với các toán tin tặc càng lúc càng năng động với những kỹ thuật và chiến lược càng lúc càng tinh vi. Tổ chức trên sân nhà, Pháp kỳ vọng nhiều vào Atos.
Một cách cụ thể, Atos lo liệu nhiều khâu dịch vụ khác nhau, từ việc đăng ký và cấp giấy phép cho các vận động viên, các phái đoàn đến dự Olympic Paris, phân phối vé vào cửa cho mỗi cuộc tranh tài, bảo đảm dịch vụ niêm yết trực tiếp về kết quả các cuộc thi đấu trong suốt thời gian diễn ra Thế Vận Hội và Paralympic. Điều đó cũng có nghĩa là tập đoàn Pháp này nắm giữ rất, rất nhiều thông tin cá nhân nhậy cảm liên quan đến các vận động viên của thế giới, đến các quan chức trong những phái đoàn quốc gia, liên quan đến thẻ tín dụng ngân hàng của tất cả những ai đặt vé vào xem các cuộc tranh tài … Atos cũng sẽ phải bảo đảm rằng trong 3 tuần lễ Olympic và gần 2 tuần Paralympic, không một tác nhân « ngoài cuộc nào thâm nhập được vào các hệ thống tin học » của nước chủ nhà, của các hãng gia công, không một sự cố nghiêm trọng nào « đánh sập » trang nhà Thế Vận Hội Paris, làm tê liệt hệ thống mua bán vé trên mạng, hay can thiệp vào mạng các cơ sở hạ tầng thiết yếu trên toàn quốc …
Được thành lập từ 1997, theo bảng xếp hạng NelsonHall (của Anh), Atos là một trong ba tập đoàn hàng đầu thế giới có mức độ « đáng tin cậy nhất, hiệu quả nhất » để chận các vụ thâm nhập bất hợp pháp vào mạng tin học của các mục tiêu bị nhắm tới. Atos có « 15 trung tâm an ninh mạng, 6.000 chuyên gia và 30 năm kinh nghiệm », áp dụng các hệ thống tin học được sử dụng trong thế giới thể thao.
Một cột trụ lung lay trước những thách thức lớn
Chỉ có điều là con chim đầu đàn này đang gặp nạn vào lúc nguy cơ Olympic Paris gặp sự cố tin học « cao hơn gấp từ 8 đến 10 lần so với Thế Vận Hội Tokyo hồi năm 2021 ». Một lãnh đạo cao cấp của Atos đã nhắc lại là « 450 triệu sự cố cyber » đã xảy ra nhân Olympic Tokyo 2021. Cơ quan quốc gia Pháp đặc trách về an toàn cho các hệ thống tin học ANSSI trong báo cáo cuối tháng 2/2024 đặc biệt chú ý đến các hoạt động của tác toán tin tặc do Nga, Trung Quốc, Iran và Bắc Triều Tiên giật dây.
Hỏa ngục tài chính
Vậy mà hơn 100 ngày trước lễ Khai Mạc Thế Vận Hội Paris, các tin xấu dồn dập đổ vào Atos : Từ nay đến cuối tháng 7, tập đoàn này phải gấp rút huy động 3,5 tỷ euro thanh toán nợ đáo hạn (trước cuối 2025). Hai đối tác duy nhất và được coi là có triển vọng nhất đang đàm phán để mua lại một phần vốn của Atos thì vào giờ chót tuyên bố bỏ cuộc.
Điều đó có nghĩa là tập đoàn số 3 thế giới trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ tin học phải đàm phán lại - gần như là từ đầu, mất thêm thời gian để huy động vốn. Trên sàn chứng khoán, cổ phiếu của Atos rơi xuống còn chưa đầy 2 euro thay vì cả trăm euro như hồi năm 2020.
Trên kênh truyền hình tư nhân BFM TV, Guy Mamou Mani, chủ tịch - tổng giám đốc cơ quan tư vấn Gadax Conseil, trụ sở tại quận 9 Paris, nhấn mạnh đến một nghịch lý khó hiểu : Atos bị các cổ đông ruồng bỏ cho dù vẫn không ngừng thu vào thêm những hợp đồng mới.
Những khách hàng của Atos là những « giá trị đáng tin cậy » như Ủy Ban Thế Vận Quốc Tế CIO, như nhà nước Pháp, quân đội Pháp, như Cơ Quan Vũ Trụ và Không Gian Châu Âu, là những tên tuổi lớn trong ngành tài chính ngân hàng, năng lượng … của Pháp và châu Âu : « Atos là một tập đoàn với hơn 100 ngàn nhân viên trên thế giới, là một hãng chuyên cung cấp những dịch vụ về điện toán hiếm có trên thế giới, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Nghịch lý ở đây làAtos vẫn đang kýthêm hợp đồng, làm việc với nhiều hãng lớn, không ngừng mở rộng danh sách các thân chủ tín nhiệm Atos và nhất là đang nắm giữ nhiều lĩnh vực then chốt và chiến lược, khó có thể ủy thác cho các công ty nước ngoài. Nhưng bên cạnh đó làtình trạng tài chính vô cùng tệ hại của con chim đầu đàn này ».
Nguy cơ bị xẻ lẻ
Ngay từ khi được thành lập năm 1997 Atos có nhiệm vụ quản lý hệ thống tin học cho các cơ quan nhà nước. Với vai trò càng lớn của công nghệ kỹ thuật số, của các dịch vụ trên mạng, Atos giờ đây quản lý, bảo đảm an ninh cho hệ thống điện toán của sở thuế vụ quốc gia, của các cơ quan bảo hiểm y tế, xã hội, thất nghiệp … tại Pháp. Các nhà máy điện lực, hệ thống giao thông công cộng, hệ thống tài chính ngân hàng của Pháp … và nhiều đối tác châu Âu đều trong tay Atos. Các hoạt động này được tập trung trong thực thể mang tên Tech Foundations.
Ngoài ra, Atos còn là một trong những nhà sản xuất « siêu máy tính » hiếm hoi trên thế giới với chức năng tiến hành hàng tỷ, tỷ phép tính số học mỗi ngày để sử dụng trong cac lĩnh vực khoa học, quân sự hay trí tuệ nhân tạo … Atos cũng chuyên về phát triển trí tuệ nhân tạo, công nghệ data, bảo đảm an ninh trong môi trường digital. Mảng hoạt động này đang được phát triển mạnh, do Eviden và BDS điều hành, cả hai cùng là những chi nhánh của Atos.
Trở lại câu hỏi vì sao Atos rớt đài ? Chủ tịch - tổng giám đốc cơ quan tư vấn Gadax Conseil của Pháp thực sự lấy làm tiếc là tương tự như nhiều đại tập đoàn công nghiệp trên thế giới, tiếng nói của các cổ đông càng lúc càng được lắng nghe. Hệ quả kèm theo là « không một kỹ sư có kinh nghiệm trong ngành được mời tham gia hội đồng quản trị của Atos. Đây là câu lạc bộ độc quyền của một số chính khách và rất nhiều ông chủ ngân hàng, chủ nhân các quỹ đầu tư … »
Leïla Marchand, nhà báo chuyên phụ trách chuyên mục Tech Medias của báo kinh tế Les Echos, giải thích : « Về mặt chính thức, chúng ta biết hãng này đang gặp khó khăn, sau một loạt những tính toán sai lầm, và từ năm 2021 Atos đã tính đến khả năng chuyển nhượng lại một số hoạt động của công ty. Chủ yếu là tách rời hai mảng : bán đi các chi nhánh đang gặp khó khăn, để chỉ giữ lại những lĩnh vực đang cho phép thu về lợi nhuận cao và như là bảo đảm các dịch vụ an ninh mạng và sử dụng siêu máy tính để điều hành các nhà máy điện hạt nhân ».
Nguy cơ chuyển nhượng một lĩnh vực « nhậy cảm » cho một nhà đầu tư nước ngoài
Do vậy, nghịch lý ở đây là Atos bị đẩy vào thế phải chạy đua với thời gian, tìm ra vài tỷ euro để thỏa mãn đòi hỏi ngày càng lớn của các cổ đông. Trong cuộc chạy đua đi tìm lợi nhuận đó, « một trong những con chim đầu đàn có thể bảo đảm được thế tự chủ của Pháp về công nghệ trong thời đại kỹ thuật số » có nguy cơ đánh mất đi những công cụ quý giá, như là một đội ngũ chuyên gia với tay nghề cao, uy tín của một rào cản đáng tin cậy để bảo mật những thông tin liên quan đến an ninh quốc gia. Tệ hơn nữa, Atos, trong thế yếu, đang đàm phán với một nhà tài phiệt gốc Séc để chuyển nhượng lại một phần những hoạt động mà chính nhà nước Pháp coi là « ưu tiên hàng đầu để giành lấy quyền tự chủ và độc lập với công nghệ của Mỹ ».
Leïla Marchand, báo Les Echos của Pháp, giải thích tiếp : « Điều cấp bách nhất hiện nay là phải có tiền mặt vì Atos đang bị đẩy vào chân tường, trước một núi nợ 5 tỷ euro, trong đó 3,5 tỷ phải được thanh toán trước cuối năm 2025. Tức là trong bối cảnh đó, Atos đang phải đàm phán lại với các chủ nợ, đồng thời nằm trong tầm ngắm của các cơ quan thẩm định tài chính. Tháng Giêng 2024, mức độ đáng tin cậy của Atos đã bị hạ 3 nấc điểm. Vào lúc cần phải đi vay thêm, cần phải tìm kiếm các đối tác để mua lại một phần các hoạt động của mình thì Atos lại bị công ty thẩm định tài chính Mỹ, S&P, xếp vào loại những tập đoàn mang tính rủi ro cao ».
Về phần Gwenaëlle Barzic, cũng thuộc tờ Les Echos, bà coi việc Atos bị S&P hạ điểm tín nhiệm là một đòn chí tử gây thêm khó khăn cho một trong những công ty có triển vọng nhất của Pháp trong lĩng vực digital : « Đây là một tin quan trọng vì bị hạ điểm tín nhiệm như vậy tạo hoang mang nơi một số thân chủ của Atos, và thậm chí là một số khách hàng có thể quay lưng lại với một tập đoàn có điểm tín nhiệm quá thấp. Hơn nữa, với điểm tín nhiệm thấp như vậy, Atos càng bị suy yếu vào lúc hãng này cần đàm phán lại về hợp đồng để chuyển nhượng lại một số hoạt động và cần huy động vốn để chuẩn bị thanh toán nợ hàng tỷ euro sắp đáo hạn ».
Trước mắt, Atos khẳng định những biến động về tình hình tài chính của tập đoàn này không ảnh hưởng đến các thân chủ và sẽ vẫn chu toàn nhiệm vụ theo hợp đồng trong mùa Thế Vận Hội Paris năm nay.
Ba bài học từ Atos
Tuy nhiên, hiện thời có ít nhất ba bài học có thể rút ra được từ trường hợp đặc biệt của Atos : một là thế rất mạnh của các cổ đông có thể tạo nên một cơn bão vô tiền khoáng hậu và thậm chí là có nguy cơ khai tử một trong những tập đoàn được cho là thuộc diện an toàn nhất.
Thứ hai là bên cạnh những tính toán đầy mạo hiểm từ nhiều đời lãnh đạo khác nhau để phát triển và vươn lên thành một trong những công ty mũi nhọn trên thế giới digital, Atos đang trả giá cho một số sai lầm, mà điển hình là núi nợ 5 tỷ euro phải thanh toán trước ngưỡng 2029.
Điểm thứ ba là cho dù chính phủ Pháp, cũng như Liên Âu, đã đề ra mục tiêu « tự chủ về công nghệ, data, trí tuệ nhân tạo, tăng cường an ninh mạng ... », nhưng những khẩu hiệu đó đang vấp phải thực tế như trong trường hợp của Atos hiện nay. Đó là chưa kể đến những đòn cạnh tranh nguy hiểm ngay giữa các thành viên của châu Âu là Pháp và Đức. Bởi trong hồ sơ giải cứu Atos này, dự án tập đoàn Airbus, mà Pháp và Đức là hai thành viên chủ chốt, mua lại chi nhánh BDS đã nhiều lần bị hỏng, để rồi tạm thời một tập đoàn của Đức, đối thủ cạnh tranh với Atos, hưởng lợi.
115 ngày trước Olympic Paris 2024 và trước áp lực rất lớn mà các toán tin tặc đang đặt ra, ai cùng biết rằng thành công hay thất bại của Thế Vận Hội lần này phần nào tùy thuộc và khả năng của Pháp « bảo đảm an ninh và an toàn cho các hệ thống tin học ». Đối với Atos cũng như nước chủ nhà, mục đích duy nhất sẽ là làm thế nào để tất cả các toán tin tặc bị việt vị trong suốt mùa Thế Vận Hội và Paralympic Paris.
Tue, 02 Apr 2024 - 165 - Nông sản Ukraina trong tầm ngắm của nông dân châu Âu : Nga thắng lớn
Nông dân tại nhiều nước trong Liên Hiệp Châu Âu, những đồng minh gắn bó với Kiev, phẫn nộ vì nông phẩm rẻ Ukraina phá giá thị trường. Trong khi đó lúa mì, ngô và ngũ cốc của Nga dễ dàng được nhiều nước trong Liên Âu « mở rộng vòng tay chào đón » mà không bị cáo buộc « cạnh tranh bất bình đẳng » với nông phẩm của châu Âu. Đây là một « thắng lợi quan trọng về nhiều mặt » đối với Matxcơva từ khi Vladimir Putin đưa quân xâm chiếm Ukraina.
25 tháng sau khi những người lính Nga đầu tiên tràn sang biên giới Ukraina, mãi đến hôm 22/03/2024 Ủy Ban Châu Âu mới đề nghị tăng thuế đánh vào ngũ cốc, dầu ăn của Nga. Một công đôi việc : vừa ngăn chận nông phẩm rẻ khuynh đảo thị trường châu Âu (qua đó xoa dịu nỗi công phẫn trong giới nông gia trước bầu cử Nghị Viện châu Âu), vừa ngừng tài trợ cho cỗ máy chiến tranh của Vladimir Putin.
Tại sao phải mất hơn 2 năm, Liên Âu mới nhắm tới đến nông phẩm của Nga ? Sau nhiều tháng « khủng hoảng », nông dân Ba Lan, Solvakia hay các nước vùng Baltic, chận xe tải chở lương thực, thực phẩm Ukraina ở các đường biên giới, sau việc 5 nước thành viên Liên Âu đầu mùa thu 2023 tạm cấm nhập khẩu ngũ cốc Ukraina, Bruxelles mới đề nghị tăng thuế nhập khẩu đánh vào nông phẩm của Nga (ngũ cốc, ngô, lúa mì, dầu thực vật và các sản phẩm chế biến từ dầu…) bán trực tiếp cho Liên Âu. Biện pháp đề xuất đó không liên quan đến nông phẩm của Nga chỉ trung chuyển qua khối này để xuất khẩu sang một thị trường khác như châu Phi, hay Trung Đông …
Chiến tranh Ukraina, nông dân Nga hưởng lợi
Thống kê của châu Âu cho thấy từ tháng 7/2023 đến tháng 1/2024, Liên Âu hàng tháng nhập khẩu ngũ cốc từ Nga cao hơn « gấp 5 lần so với mức trung bình của 5 năm gần đây ».
Ý và Tây Ban Nha là hai nước mua vào nhiều nhất ngũ cốc của Nga. Lúa mì của Nga bán cho Ý tăng 82 % trong chưa đầy một năm, đạt 423.000 tấn hồi 2023.
Theo giới quan sát, điện Kremlin có nhiều lý do để vẫn yên tâm « trên mặt trận nông nghiệp » vào lúc mà Bruxelles đòi đánh thuế nông phẩm Nga. Thứ nhất, đây mới chỉ là một đề xuất được Liên Hiệp Châu Âu đưa ra trong phiên hôm 22/03/2024, mà ai cũng biết là về bất cứ một vất đề gì, 27 thành viên Liên Âu luôn cần « thảo luận, đàm phán » rất nhiều trước khi tìm được đồng thuận và thực sự áp dụng chính sách đã đề ra.
Điểm thứ nhì là đành rằng do tác động chiến tranh Ukraina và châu Âu vẫn để ngỏ cửa cho hàng của Nga thâm nhập, nhưng chỉ riêng về ngũ cốc, nhập khẩu của Liên Âu (mà Nga chỉ là một trong số các đối tác) tính ra chưa đầy 0,56 % so với khối lượng ngũ cốc mà khối này bán ra cho toàn thế giới. Nói cách khác, đánh thuế nông phẩm của Nga chỉ mang tính tượng trưng chứ không ảnh hưởng gì đến nông dân Nga, đến các hoạt động xuất khẩu nông phẩm của Nga.
Điểm thứ ba là vào lúc Liên Âu bàn thảo về khả năng tăng thuế nhập khẩu đối với nông phẩm Nga thì Bruxelles, vì bảo vệ lợi ích cho nông dân khối châu Âu, cũng trở nên ích kỷ hơn và ít đoàn kết hơn với nông dân Ukraina.
Hầu như mỗi ngày các phương tiện truyền thông của Pháp, Đức hay Ba Lan, Slovakia đều điểm danh thịt gà, trứng, đường, ngô, dầu ăn… của Ukraina nhân gây xáo trộn trên thị trường lương thực thực phẩm của Liên Hiệp Châu Âu, gây thiệt hại cho giới chăn nuôi của khối này.
Nông gia Châu Âu có lợi cho Putin tịch thu một công cụ kháng chiến của Kiev
Châu Âu càng đau đầu vì nông phẩm Ukraina, Nga càng mừng. Hình ảnh nông dân Ba Lan (mà Vacxava là điểm tựa trung thành và vững chắc của chính quyền Kiev ngay từ những ngày đầu chiến tranh), đổ nông phẩm Ukraina xuống đường, cũng đủ để thách thức tính đoàn kết của quốc gia đông Âu này với Ukraina. Đó là một thắng lợi về mặt tâm lý mà Matxcơva không phải tốn đến một xu !
Hơn thế nữa, từ khi nổ ra chiến tranh, nếu như tổng thống Nga Vladimir Putin trông cậy vào năng lượng để tài trợ « chiến dịch quân sự đặc biệt », thì nông phẩm đối với tổng thống Ukraina, Volodymyr Zelenski, cũng là một công cụ kháng chiến.
Trong một chương trình về địa chính trị, do giám đốc Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược IRIS của Pháp, ông Pascal Boniface điều hành, nhà nghiên cứu về lương thực, thực phẩm Sébastien Abis, giám đốc Câu Lạc Bộ Club Déméter phân tích :
Sébastien Abis: Trong trường hợp cụ thể của Ukraina, một cường quốc nông nghiệp trên thế giới, bị ngăn cản xuất khẩu qua ngả Biển Đen cho nên chính quyền Kiev đã phải tìm những giải pháp thay thế, bằng đường sông, đường bộ. Tuy nhiên, sau hai năm chiến tranh, Ukraina đã có khả năng thích nghi, xuất khẩu trở lại qua Biển Đen. Từ một vài tháng trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu lương thực, thực phẩm của quốc gia này đã trở lại ngang bằng với thời kỳ trước khi bị Nga xâm chiếm. Đối với Ukraina thì xuất khẩu nông phẩm mang yếu tố sống còn. Đây là một trong những cột trụ của kinh tế Ukraina trong giai đọan chiến tranh. Nhờ xuất khẩu nông phẩm mà Kiev có phương tiện kháng cự trước sức mạnh quân sự của Nga.
Cũng chính hồ sơ nông nghiệp đã đẩy căng thẳng giữa Kiev và Vacxava lên cao đến mức, vào tháng 9/2023, vài tuần trước bầu cử Quốc Hội, Ba Lan tuyên bố « ngừng cung cấp vũ khí cho Ukraina ». Ba Lan là cửa ngõ chính đưa viện trợ vũ khí của phương Tây vào Ukraina.
Tuyên bố cuả thủ tướng khi đó là ông Mateusz Morawiecki, (với lâp trường bảo thủ) đã gây chấn động đến nỗi tổng thống Ba Lan cùng phe với Morawiecki đã vội vàng giải thích đấy là một sự « hiểu nhầm ».
Sau bầu cử Quốc Hội Ba Lan, tân chính phủ do thủ tướng Donald Tusk, một người có lập trường cởi mở với châu Âu đứng đầu, nhưng nông dân Ba Lan vẫn bất mãn vì bị nông phẩm rẻ của Ukraina cạnh tranh.
Sự phẫn nộ đó dễ hiểu do : từ đầu chiến tranh Ukraina, Bruxelles mở cửa cho Kiev tự do xuất khẩu từ lúa mì đến ngũ cốc vào Liên Âu bằng đường bộ. Liên Hiệp Châu Âu không áp dụng các hàng rào quan thuế, cũng không quy định hạn ngạch quota.
Trên nguyên tắc, khối lượng thực phẩm đó sẽ tiếp tục được chuyển tới một thị trường ở ngoài khối châu Âu. Thực tế có phần khác. Thống kê của Liên Hiệp Châu Âu Eurostat cho thấy : lượng lúa mì Ukraina tràn vào Liên Âu trong hai năm đã được « nhân cao lên tới 17 lần so với trước chiến tranh ». Cùng thời kỳ, giá một tấn lúa mì trên thị trường quốc tế đang từ 430 euro nay đã giảm xuống còn chưa đầy 200 euro/tấn. Giới chăn nuôi trong Liên Hiệp Châu Âu nói đến một « sự sụp đổ trên thị trường » và lên án Ukraina « cạnh tranh bất bình đẳng ».
Về phía Kiev, tổng thống Zelensky hoàn toàn ý thức được là « già néo đứt dây » nên đã liên tục tỏ thiện chí trên hồ sơ nông nghiệp. Gần đây nhất, hôm 25/03/2024, Ukraina khẳng định sẵn sàng « kiểm soát các luồng xuất khẩu liên quan đến 4 loại ngũ cốc » sang Ba Lan và đã có những thỏa thuận tương tự với một số quốc gia khác như Rumani hay Bulgari.
Lòng tốt của Liên Âu có hạn
Chuyên gia về tầm mức địa chính trị của lương thực, thực phẩm Sébastien Abis cũng trong chương trình của Viện IRIS phân tích thêm :
Sébastien Abis : Vấn đề Ukraina rất tế nhị bởi ở đây bao hàm tất cả những mâu thuẫn giữa tầm nhìn đôi khi thiển cận của Liên Âu. Ở đây đặt ra hai vấn đề : một là chính sách nông nghiệp chung châu Âu PAC mà trên thực tế trong thời gian gần đây, mỗi thành viên đều chủ động đưa ra một số biện pháp riêng lẻ để bảo vệ nông dân của mình. Tình thần cộng hưởng của chính sách nông nghiệp chung châu Âu trong một chừng mực nào đó đã bị một số thành viên xé rào từ 2023. Điểm thứ nhì là trong bối cảnh chiến tranh Ukraina, thì ngay từ những ngày đầu, Liên Hiệp Châu Âu đã rất đoàn kết với Ukraina và đã giúp đỡ Kiev về mọi mặt, kể cả trong việc tìm cách đưa lúa mì, ngũ cốc … của Ukraina ra khỏi các vùng chiến sự để bán được cho nước ngoài. Cũng ngay từ những ngay đầu cuộc chiến, Bruxelles đã lập tức cắt giảm các hàng rào thuế quan đánh vào nông phẩm của Ukraina. Liên Âu thực sự đứng về phía Ukraina và nhấn mạnh đến vị trí của quốc gia này trong khối Châu Âu. Song Ukraina như vừa nói là một cường quốc nông nghiệp, mà mại không phải tuân thủ các chuẩn mực hay quy định nghiêm ngặt của Liên Hiệp Châu Âu về môi trường, về sinh thái, về các điều khoản vệ sinh, y tế …. Lao động của Ukraina rẻ hơn nhiều so với trong khối 27 nước thành viên Liên Âu. Thành thử nhiều lĩnh vực nông nghiệp của châu Âu cạnh tranh không lại với nông phẩm Ukraina. Thí dụ như ban đầu ngũ cốc của Ukraina đánh bại hàng từ phía các nước đông Âu, rồi tới gà Ukraina rẻ hơn so với của các nước Tây Âu, thế rồi đường, lúa mì của Ukraina rẻ hơn so với giá thành ở Pháp…. Đến một lúc nào đó, nông gia châu Âu phẫn nộ …
Phòng Nông Nghiệp Pháp ghi nhận : Năm 2022, hơn 50 % trứng gà Ukraina bán ra cho thế giới bán sang Liên Hiệp Châu Âu. Xuất khẩu của Ukraina sang thị trường châu Âu trên mặt hàng này đã nhân lên gấp 10 trong vòng một năm. Trước khi Nga xâm lược Ukraina, chỉ có 20 % đường cát sản xuất tại Ukraina được dành để bán sang Liên Âu. Dưới tác động chiến tranh, tỷ lệ đó tăng lên tới 74 %
Điều khiến nhiều thành viên trong Liên Hiệp Châu Âu bất bình là sau hai năm chiến tranh, Ukraina đã thích nghi với tình huống, giao thương hàng hải ở Biển Đen không còn bị đứt quãng như trong nửa đầu năm 2022. Lạm phát vẫn tồn tại và giá nhu yếu phẩm tại một số quốc gia vẫn còn cao, nhưng giá một tấn lúa mì giờ đây đã giảm đi hơn 50 % so với những tháng đầu cuộc chiến. Thậm chí, các hoạt động ở những bến cảng Ukraina chung quanh Biển Đen đã phục hồi và tìm lại được « nhịp độ như trước tháng 2/2022 ».
Do vậy, Kiev khó chỉ trích Bruxelles ích kỷ khi mà Ủy Ban Châu Âu « điều chỉnh lại » các biện pháp hỗ trợ nông nghiệp cho Ukraina. Đó là chưa kể bài toán của Liên Âu càng thêm khó hơn hai tháng trước bầu cử Nghị Viện. Khuynh hướng chung là các đảng cực tả và cực hữu khai thác phẫn nộ của nông dân châu Âu để kiếm phiếu.
Tue, 26 Mar 2024 - 164 - Giải quyết nợ ở cấp địa phương Trung Quốc : Thất bại được báo trước
Khóa họp Lưỡng Hội Trung Quốc 2024 kết thúc với kết quả « 3 Không » : « Không thuyết phục được giới đầu tư quay lại Hoa Lục ; Không đạt được mục tiêu tăng trưởng 5 % và Không có chính sách kinh tế rõ ràng ». Chuyên gia về Trung Quốc, sáng lập viên cơ quan tư vấn Cercius tại Montréal, Canada, Alex Payette nhận xét như trên về sự kiện chính trị vừa khép lại tại Bắc Kinh hôm 11/03/2024.
Cho dù lần này thủ tướng Lý Cường đã không họp báo như thông lệ bên lề khóa họp Quốc Hội nhưng trong phiên khai mạc hôm 05/03/2024, như mọi năm, chủ tịch Quốc Vụ Viện thông báo mục tiêu tăng trưởng và Bắc Kinh dự phóng GDP năm nay tăng 5 %. Tuy nhiên không một nhà quan sát nào tin vào con số đó. Các nhà đầu tư thất vọng trước những thông báo bị cho là « trống đánh xuôi, kèn thổi ngược » của Bắc Kinh trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng và cũng không ai tin tưởng vào mục tiêu giải quyết nợ cho các chính quyền địa phương, đã tương đương với 50 % GDP của Trung Quốc theo thẩm định của nhiều cơ quan tài chính quốc tế.
Mục tiêu tăng trưởng 5 % KHÔNG có cơ sở
Trước hết về về mục tiêu tăng trưởng được ông Lý Cường loan báo, giám đốc và đồng sáng lập viên cơ quan tư vấn Cercius cho rằng chỉ tiêu GDP tăng 5 % cho năm 2024 « không thực tế ». Lý do là tiêu thụ nội địa không khởi động lại từ sau đại dịch Covid mà đây là hệ quả từ khủng hoảng địa ốc kéo dài. Nhìn đến xuất khẩu, các chỉ số đều cho thấy hoạt động tăng chậm lại khi mà hai thị trường lớn nhất là Mỹ và châu Âu thận trọng hơn với hàng rẻ Trung Quốc, khi mà bất ổn ở Hồng Hải gây xáo trộn các tuyến đường giao thương trên biển trong lúc mà tiêu thụ ở châu Phi, tại Đông Nam Á và cả Nga đã không tăng nhanh như mong muốn.
KHÔNG có những biện pháp cụ thể chặn chẩy máu đầu tư
Vẫn về kinh tế, điểm thứ nhì khóa họp Chính Hiệp và Quốc Hội Trung Quốc lần này gây thất vọng là « ngoại trừ một vài con số và khẩu hiệu được đưa ra », về thực chất sự kiện vừa rồi đã « không cung cấp bất kỳ một thông tin nào đáng chú ý về chính sách của Trung Quốc cho năm nay ». Thất vọng hơn nữa theo chuyên gia Alex Payette là vào lúc tình hình kinh tế đang xấu đi và giới quan sát chờ đợi Bắc Kinh phải đưa ra một số biện pháp mạnh để « điều chỉnh » lại tình hình, thí dụ như là ngăn chận hiện tượng « chảy máu tư bản » khỏi Hoa Lục, thì chỉ thấy Bắc Kinh cảnh báo sẽ gia tăng kiểm soát hoạt động của các thị trường tài chính.
Mới chỉ một vài năm trước đây, các kỳ hợp Lưỡng Hội diễn ra trong vòng từ 10 đến 15 ngày, thì lần này sự kiện chính trị đó đã bị thu gọn trong đúng 1 tuần lễ, rồi sự kiện thủ tướng Lý Cường -người quản lý các bộ và cơ quan ngang bộ, hủy cuộc họp báo thường niên, như thể Lưỡng Hội và Quốc Vụ Viện « chỉ còn là cái vỏ rỗng », thực quyền và vai trò của bộ phận này đã « được dịch chuyển đi nơi khác ».
Hệ quả là cho dù các bộ trưởng trưởng liên quan, các giới chức kinh tế, tài chính tổ chức một họp báo hôm 06/03/2024 với sự tham gia của bộ trưởng Thương Mại, Tài Chính, Thống Đốc Ngân Hàng Trung Ương và Chủ Tịch Ủy Ban Điều Tiết Chứng Khoán ...Các quan chức cao cấp này đã đề cập đến những hồ sơ như định hướng phát triển, hỗ trợ thương mại, đầu tư, điều tiết thị trường tài chính, ngân sách nhà nước …. Nhưng theo giới phân tích, kết thúc cuộc họp báo đường lối sắp tới của Trung Quốc vẫn là một « chiếc hộp đen ».
Trả lời RFI Việt ngữ, từ Montréal- Canada, chuyên gia về Trung Quốc Alex Payette giải thích rõ hơn :
Alex Payette : « Trong cuộc họp báo (hôm 06/03/2024), ông Ngô Thanh (Wu Qing), chủ tịch Ủy Ban Điều Tiết Chứng Khoán Trung Quốc đã đưa ra một số thông báo liên quan đến thị trường tài chính, đến lĩnh vực địa ốc và ngân hàng. Ông cam kết là sẽ ‘nghiêm ngặt trừng phạt’ những nhà đầu cơ làm lũng đoạn thị trường và xem việc bảo vệ các cổ đông cò con là một ‘ưu tiên’. Những tuyên bố này dễ hiểu trong bối cảnh nhiều cổ đông tư nhân đang phẫn nộ vì bị thua lỗ quá nhiều trong thời gian gần đây nhưng cam kết kiểm soát chặt chẽ hơn nữa các hoạt động mua bán bất động sản, trong giới ngân hàng … không nhằm trấn khuyến khích đầu tư vào Trung Quốc. Giới quan sát cũng đã thất vọng vì kết thúc khóa họp lưỡng hội, chính quyền Bắc Kinh không hề đưa ra bất kỳ một đường lối rõ ràng nào về chính sách tài chính và kinh tế của Trung Quốc trong tương lai ».
Alex Payette sở dĩ chú ý đến phát biểu của chủ tịch Ủy Ban Điều Tiết Chứng Khoán Trung Quốc Ngô Thanh, do ông này vừa được bổ nhiệm hồi đầu tháng 2/2024 và nổi tiếng là nghiêm khắc, ông từng mạnh tay « khai tử những con vịt què trên các sàn chứng khoán ». Ông Ngô Thanh còn chủ trương kiểm soát chặt chẽ hơn nữa tất cả những doanh nghiệp muốn tham gia sàn chứng khoán. Về thực chất theo Alex Payette, « lành mạnh hóa »thị trường tài chính là điều chính đáng và quả là từ khi ông được chỉ định điều hành ủy bàn này, chỉ số tài chính ở Thượng Hải đã tăng lên 14 % sau khi đã rơi xuống mức thấp nhất kể từ 2019. Có điều chủ trương « gia tăng kiểm duyệt » tài chính đó không chắc sẽ có sức thu thút đầu tư của Trung Quốc và nước ngoài vào lúc mà Trung Quốc đang bị thất thoát vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Cũng không chắc đường lối này giúp Trung Quốc nhanh chóng trở thành một « cường quốc tài chính » như tham vọng từng được ông Tập Cận Bình đề xướng.
KHÔNG chắc Trung Quốc muốn giải quyết nợ LGFV
Nhưng điểm khiến đồng sáng lập viên cơ quan tư vấn Cercius lo ngại hơn cả là những mâu thuẫn trong phát biểu của bộ trưởng tài chính Lam Phật An (Lan Po’An), vừa đòi các chính quyền địa phương cắt giảm chi tiêu, vừa loan báo Bắc Kinh phát hành công trái phiếu, bơm thêm 1.000 tỷ nhân dân tệ (138 tỷ đô la) để kích cầu, thí dụ như là để « đẩy mạnh đầu tư vào các hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật số » vì đó là công nghệ của tương lai. :
Alex Payette : « Trung Quốc không có sự chọn lựa nào khác là phải phát triển công nghệ số bởi vì thứ nhất các hoạt động công nghiệp truyền thống không còn có tương lai. Không còn mấy ai muốn lam lũ làm việc trong các nhà máy như 10 hay 20 năm trước nữa. Thứ nhì, là công nghệ kỹ thuật số đang là một lĩnh vực của tương lai, không cần quá nhiều nguồn lực mà lại có triển vọng nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư và có lãi nhiều. Thành thử chúng ta dễ hiểu khi mà Trung Quốc dồn nỗ lực để phát triển công nghệ ».
"Đi vay thêm nợ để trả nợ"
Nhưng vừa cắt giảm chi tiêu vừa đi vay thêm để thúc đẩy tăng trưởng, liệu có là một cái vòng luẩn quẩn báo trước Trung Quốc không bao giờ thanh toán được bớt nợ, nhất là những khoản nợ « không chính thức » mà các chính quyền địa phương đã đi vay dưới dạng trái phiếu mà không được Trung Ương đứng ra bảo lãnh, gọi tắt theo tiếng Anh là LGFV ?
Alex Payette : « Chúng tôi ghi nhận hai thông điệp hoàn toàn trái ngược nhau về tình hình tài chính của Trung Quốc. Trong cuộc họp báo, bộ trưởng Tài Chính Lam Phật An cho biết Bắc Kinh sẽ phát hành công trái phiếu trong dài hạn để tài trợ rất nhiều dự án phát triển trong những lĩnh vực khác nhau, vì mục tiêu hỗ trợ kinh tế, vì mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng trong công nghệ kỹ thuật số, vì mục tiêu phát triển công nghệ cao …. . Nhưng ngay sau đó cũng vị bộ trưởng này tuyên bố chủ trương cắt giảm chi tiêu, tiết kiệm ngân sách. Ông Lam đã trực tiếp chỉ trích các chính quyền địa phương, từ lâu nay vay mượn quá trớn để tài trợ hàng loạt các dự án xây dựng vô cùng tốn kém mà xây dựng xong thì cũng không biết là để làm gì. Hệ quả kèm theo là giờ đây các chính quyền địa phương ở Trung Quốc đang ngồi trên những núi nợ khổng lồ. Nhìn dưới góc độ đó, kêu gọi « thắt lưng buộc bụng » là hoàn toàn có cơ sở (…)
Điều mà bộ trưởng Tài Chính Trung Quốc không nói ra ở đây là nợ mà các chính quyền cấp vùng, cấp tỉnh đi vay là để thanh toán nợ đáo hạn cho các ngân hàng, để trả tiền lương cho công nhân viên chức nhà nước, để tiếp tục đài thọ cho một số công trình xây dựng đang bị bỏ dở ... Vậy nếu ngân sách của các chính quyền địa phương thì hậu quả sẽ ra sao ? Kinh tế địa phương lại còn tiếp tục đổ dốc thêm nữa. Thế rồi khi mà chính phủ thông báo giải ngân 1.000 tỷ nhân dân tệ để tài trợ cho các chương trình đầu tư lâu dài … thì số tiền đó sẽ được sử dụng vào việc gì ? Trung Quốc đã bị lôi vào vòng xoáy nợ nần, nhưng vẫn thông báo phát hành thêm công trái phiếu dài hạn để tài trợ cho các dự án phát triển …. Nợ lại càng lớn thêm lên thôi ! Thành thử những thông điệp từ đại hội vừa rồi đầy mâu thuẫn và Bắc Kinh lại chuẩn bị bơm thêm tiền vào cho các chính quyền địa phương để có được thành tích tăng trưởng một cách giả tạo ».
Giải quyết nợ LGFV : nhiệm vụ bất khả thi
Chiến thuật « một bước tiến, hai bước lùi » nói trên của Bắc Kinh khiến Nikkei Asia, báo tài chính Nhật Bản (ngày 18/03/2024) cho rằng những nỗ lực để giải quyết núi nợ hơn cả chục ngàn tỷ đô la của các chính quyền địa phương Trung Quốc đều sẽ thất bại.
Bắc Kinh ý thức được là không còn nhiều thời gian khi mà khối nợ « không chính thức » LGFV, ước tính lên tới từ 10.000 đến 12.000 tỷ đô la (tương đương với 2 lần GDP của toàn nước Đức và bằng 50 % so với GDP của Trung Quốc). Từ nửa cuối 2023, Bắc Kinh đã có một số biện pháp « hỗ trợ các chính quyền ở cấp tỉnh tái cơ cấu nợ, giảm thiểu nguy cơ mất khả năng thanh toán ». Hiện tại Trung ương can thiệp theo 2 phướng : một là huy động các ngân hàng nhà nước đứng ra bảo lãnh một phần khối nợ LGFV (với lãi suất hơn 10 %) và giải pháp thứ nhì là kêu gọi các tỉnh thành đi vay thêm để thanh toán nợ đáo hạn. Ngay chính các chuyên gia Trung Quốc được báo Nhật Nikkei Asia và tờ báo tài chính Trung Quốc Caixin trích dẫn đồng loạt ghi nhận đấy chỉ là những « giải pháp tạm thời ». Vấn đề nợ của Trung Quốc chỉ có thể được giải quyết một khi mà các khoản « chi, thu » và cả « trách nhiệm » giữa cấp trung ương và địa phương được « san sẻ một cách cân đối hơn ».
Bên cạnh những thất vọng vừa nêu sau khóa họp Lưỡng Hội lần này tại Bắc Kinh, Alex Payette tuy nhiên cũng nhắc lại; thông thường vai trò của Chính Hiệp và Quốc Hội Trung Quốc không nhằm đề xuất các chính sách hay các biện pháp cải tổ. Cuộc họp này chỉ nhằm nhắc lại những đường lối chính đã được thông qua trong các cuộc họp kín của Đảng trước đó. Có điều lần này khóa họp từ ngày 04-05 đến 10 và 11/03/2024 tuyệt đối không « nói lên được một điều gì »ngoại trừ khả năng là ở trong hậu trường, ngay cả trên vấn đề kinh tế, các giới chức Trung Quốc dường như cũng đang có một cuộc đấu đá ác liệt để ghi điểm với ông Tập Cận Bình.
Đồng sáng lập viên cơ quan tư vấn Cercius không loại trừ khả năng thủ tướng Lý Cường đang trong tư thế khá tế nhị : hoặc là vai trò của ông điều hành các hoạt động kinh tế đang bị thu hẹp lại, hoặc là nhân vật này chịu áp lực lớn đến nỗi tự ý hủy cuộc họp báo thường niên trong dịp này.
Tue, 19 Mar 2024 - 163 - Trung Quốc thủ lợi từ chiến tranh Ukraina
Chiến tranh Ukraina càng kéo dài càng có lợi cho Trung Quốc. Bắc Kinh không trực tiếp giao vũ khí hạng nặng cho Matxcơva, nhưng lại gián tiếp tài trợ và nuôi dưỡng cỗ máy chiến tranh của Nga. Điều đó không cấm cản ông Tập Cận Bình bắt đầu "đặt gạch" cho giai đoạn tái thiết Ukraina. Emmanuel Véron, Viện Ngôn Ngữ và Văn Hóa Phương Đông ( INALCO ) và Trường Hải Quân Pháp ( Ecole Navale ) phân tích những nước cờ của Bắc Kinh trong một xung đột ở rất xa lãnh thổ Trung Quốc.
Đặc sứ Trung Quốc về các hồ sơ Á-Âu, ông Lý Huy vừa kết thúc chuyến công du nhiều nước châu Âu với những chặng Matxcơva, Kiev, Paris, Berlin, Bruxelles và Vacxava. Đây là lần thứ nhì quan chức này trở lại châu Âu để bàn về chiến tranh Ukraina. Tại Bruxelles, đặc sứ của ông Tập Cận Bình đòi Liên Âu ngừng cung cấp vũ khí cho Ukraina và phản đối Liên Âu đưa vào danh sách trừng phạt Nga ba doanh nghiệp của Trung Quốc bị nghi ngờ tiếp tay với quân đội Nga trong « chiến dịch quân sự đặc biệt » điện Kremlin tiến hành ở Ukraina từ 2022.
Kiev vẫn tin vào « vai trò trung gian » của Bắc Kinh, nhưng hình ảnh của Trung Quốc đối với công luận Ukraina đã xấu đi so với hồi tháng 5/2023, khi đặc sứ Trung Quốc lần đầu đến Kiev. Theo thăm dò của Trung Tâm Razumkov, 72,5 % những người được hỏi có cái nhìn « tiêu cực » về Trung Quốc (thay vì 59 % một năm trước đây) và gần 2/3 người Ukraina không có thiện cảm với chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, « người bạn thân thiết của tổng thống Nga Vladimir Putin ».
Trung Quốc đến nay luôn khẳng định thái độ « trung lập » trong cuộc chiến Ukraina, chưa bao giờ lên án Nga đưa quân xâm lược một quốc gia có chủ quyền. Tháng 2/2023, Bắc Kinh đã trình bày một kế hoạch 12 điểm vãn hồi hòa bình cho Ukraina, đặt mình vào thế một « nhà trung gian » hòa giải. Ông Tập Cận Bình đang tính toán những gì và liệu có thể tin rằng Trung Quốc sẽ là một nhà trung gian đáng tin cậy khi mà lãnh đạo Nga- Trung liên tục ca ngợi « tình bạn vô bờ bến » và « vững như bàn thạch » giữa Matxcơva và Bắc Kinh ?
Trong cuộc trả lời dành cho RFI tiếng Việt, chuyên gia về Trung Quốc đương đại, giảng dạy tại Trường Hải Quân Ecole Navale ở Brest, miền tây bắc nước Pháp và tại Viện Ngôn Ngữ và Văn Hóa Phương Đông, trước hết ghi nhận : Chiến tranh Ukraina mà tổng thống Nga Vladimir Putin khởi động ngày 24/02/2022 đang mở ra rất nhiều « cơ hội » cho Trung Quốc.
Emmanuel Véron : « Đầu tiên hết và nổi bật hơn cả là những cơ hội để Trung Quốc gia tăng trao đổi mậu dịch, mở rộng quan hệ ngoại giao với Nga. Ý đồ ở phía sau là về mặt chiến lược, Bắc Kinh và Matxcơva thành lập một mặt trận chống lại Washington nói riêng, và để đương đầu với phương Tây nói chung. Tổng trao đổi mậu dịch hai chiều giữa Nga và Trung Quốc năm 2021 là 140 tỷ đô la, rồi chỉ trong hai năm đã được đẩy lên tới hơn 200 tỷ vào cuối 2023. Dưới góc độ đó, Trung Quốc đã gián tiếp giúp Nga trong cuộc chiến tại Ukraina. Đôi bên chủ yếu trao đổi với nhau những gì ? Nga xuất khẩu sang Trung Quốc dầu hỏa và khí đốt, các loại nguyên liệu, từ gỗ đến khoáng sản …. Còn Trung Quốc thì cung cấp từ đồ điện gia dụng đến linh kiện bán dẫn, phụ tùng và nhất là một số công nghệ sản xuất một số vũ khí cho Nga, vừa để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa, vừa để phục vụ cho chiến tranh ».
Đối với Ukraina, từ hai năm nay, Trung Quốc chủ yếu mua thêm nông phẩm đặc biệt là lúa mì, ngũ cốc để bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm cho 1,5 tỷ dân. Nhưng thực tế phũ phàng là nhờ có chiến tranh Ukraina, xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga đã tăng mạnh vào lúc tiêu thụ nội địa của quốc gia châu Á này chựng hẳn lại sau đại dịch Covid, còn Âu Mỹ thận trọng, khó tính hơn với hàng rẻ của Trung Quốc.
Trong chiều ngược lại thì các đối tác Nga cũng đã phải nhượng bộ nhiều các khách hàng Trung Quốc, mà điển hình là Trung Quốc đã mua được dầu khí của Nga với giá thấp hơn so với thị trường. Tuy nhiên, giới quan sát lưu ý : Đối với Trung Quốc, các thị trường tiềm năng nhất trong các hoạt động xuất nhập khẩu vẫn là với Châu Âu, Mỹ và với các đối tác Đông Nam Á.
Cơ hội để khẳng định thêm vai trò đầu tầu với các nước « Phương Nam »
Do vậy theo ông Véron, những cơ hội về giao thương với Nga tuy là quan trọng, nhưng cuộc chiến mà tổng thống Nga khởi động cách này hơn 2 năm còn đem lại cho Trung Quốc nhiều lợi ích về phương diện quân sự và ngoại giao. Đó mới là điều quan trọng đối với ông Tập Cận Bình :
Emmanuel Véron : « Như vừa nói, chiến tranh Ukraina đang cho phép Nga thành lập một mặt trận để đương đầu với Mỹ và nhìn rộng ra hơn đây là một sự đương đầu giữa các nền dân chủ phương Tây với nhiều nước không thuộc khối đó, như là Trung Quốc và Nga. Trong cuộc đối đầu về các phương diện chính trị, chiến lược và quân sự đó, Trung Quốc cố gắng tránh cung cấp vũ khí hạng nặng cho Nga, nhưng lại gián tiếp ủng hộ Matxcơva bằng nhiều cách. Chúng ta vừa nêu lên vế kinh tế và ngoài ra, thông qua Bình Nhưỡng, Bắc Kinh đã bật đèn xanh cho Bắc Triều Tiên cung cấp hàng triệu đạn pháo cho Nga, trong đó có những lô đạn dược mà Bắc Triều Tiên mua từ thời Liên Xô. Ở đây có một trục tam giác Bắc Kinh - Bình Nhưỡng - Matxcơva. Thêm vào đó Trung Quốc cũng gián tiếp khuyến khích một số nước ở Trung Á, nhất là Iran, tiếp sức cho cỗ máy chiến tranh của Nga. Nói cách khác, Trung Quốc gián tiếp ủng hộ Nga về mặt quân sự, giúp Matxcơva có công nghệ để sản xuất một số vũ khí cần thiết cho chiến tranh ».
Cũng chuyên gia Véron nhắc lại, vào năm 2023, Trung Quốc đã rất năng động về mặt ngoại giao, đặc biệt là hướng tới các quốc gia « ngoài khối phương Tây ». Bắc Kinh theo đuổi 2 mục đích : Tìm kiếm các thị trường mới để xuất khẩu và lôi kéo các nước « phương Nam » chia sẻ quan điểm của Trung Quốc về cuộc chiến Ukraina. Điều đó đã được thể hiện qua các thượng đỉnh Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải tại Ouzbekistan, thượng đỉnh G20 tại Bali, Indonesia, hay thượng đỉnh khối BRICS vào tháng 8/2023 ở Nam Phi… Cuối tháng 2/2023, Bắc Kinh đã trình bày kế hoạch 12 điểm vãn hồi hòa bình cho Ukraina, cho dù Trung Quốc tuyệt đối tránh sử dụng cụm từ « chiến tranh » và « hòa bình » khi nói về xung đột đang diễn ra tại châu Âu, rất xa Hoa Lục. Văn bản chính thức của Trung Quốc mang tựa đề : « Quan điểm của Trung Quốc để giải quyết khủng hoảng Ukraina ».
« Lộ hàng » vũ khí hiện đại của phương Tây
Về mặt quân sự, một số nhà quan sát cho rằng, trong cuộc chiến Ukraina, điều ngoài mong đợi đối với Bắc Kinh là các nước phương Tây đã cung cấp nhiều loại vũ khí hiện đại giúp Kiev bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và đây là « những bài học quý giá cho Trung Quốc », trong trường hợp phải đương đầu với một cuộc xung đột vũ trang với Hoa Kỳ.
Emmanuel Véron : « Đúng vậy. Thuần túy về quân sự, các giới chức chiến lược và quân sự của Trung Quốc theo dõi rất kỹ tình hình tại Ukraina, cũng như là những gì đang diễn ra ở Hồng Hải, ở dải Gaza. Tình hình được theo dõi hàng ngày và được phân tích một cách rất cặn kẽ, bởi Trung Quốc muốn học hỏi kinh nghiệm, muốn tìm hiểu xem quân đội của Mỹ, của phương Tây được tổ chức như thế nào, hoạt động ra sao. Bắc Kinh đang quan sát xem trong một cuộc xung đột ở cường độ cao, các giới chức ngoại giao, quân sự phối hợp với nhau như thế nào. Trung Quốc đặc biệt chú trọng vào vai trò của quân đội Mỹ ».
Tầm nhìn về lâu dài : BRI và công cuộc tái thiết Ukraina
Cuộc chiến nào rồi cũng có hồi kết. Một dụng ý khác trong những nỗ lực ngoại giao của Bắc Kinh « giải quyết khủng hoảng Ukraina » liên quan trực tiếp đến dự án Con Đường Tơ Lụa Thế Kỷ 21 – BRI : Ukraina là một mắt xích quan trọng trong kế hoạch được ông Tập Cận Bình khởi động cách nay hơn 10 năm. Các dự án trên bộ, trên biển bị chựng lại do chiến tranh. Hơn nữa Trung Quốc luôn nhìn xa và đang chuẩn bị sẵn những nước cờ cho giai đoạn tái thiết Ukraina. Không yểm trợ Kiev về mặt nhân đạo, tài chính hay quân sự, Trung Quốc liệu có tính chính đáng để tham gia vào các chương trình tái thiết Ukraina sau chiến tranh hay không ? Emmanuel Véron, viện INALCO, trả lời :
Emmanuel Véron : « Chúng tôi bắt đầu có một số yếu tố để trả lời câu hỏi này, sau hơn hai năm Nga xâm chiếm Ukraina. Trung Quốc đã bắt đầu đặt một số con chốt cho giai đoạn tái thiết Ukraina, cho dù chiến tranh chưa dứt. Bắc Kinh ý thức được rằng, về mặt địa lý, Trung Quốc ở rất xa nơi có giao tranh, không giúp đỡ gì Kiev ngoài những lời kêu gọi vãn hồi hòa bình và tuyên bố sẵn sàng đóng vai trò trung gian hòa giải. Nhưng Trung Quốc muốn cũng có phần trong giai đoạn tái thiết Ukraina, nhất là trong các khâu xây dựng lại hệ thống giao thông, cung cấp điện lực … Ngoài ra, Bắc Kinh còn nhòm ngó đến các công trình ở những khu vực chung quanh Biển Đen ».
Vẫn chuyên gia về Trung Quốc đương đại Emmanuel Véron cho rằng, trong hai chuyến công tác tại Kiev năm ngoái và năm nay, đặc sứ Trung Quốc Lý Huy đều đã « bắn đi một số tín hiệu để Ukraina hiểu rằng, Bắc Kinh có thể là một mắt xích quan trọng trong công cuộc tái thiết Ukraina ». Dường như chính quyền của tổng thống Volodymyr Zelensky tỏ ra rất thực tiễn trong quan hệ đối với Trung Quốc, cho dù không mấy ai tin vào tính « trung lập » của Bắc Kinh trên hồ sơ này :
Emmanuel Véron: « Mức độ gần gũi giữa Bắc Kinh với Matxcơva khiến chúng ta khó có thể nghĩ rằng (dù chỉ là về mặt kỹ thuật) Trung Quốc ‘trung lập’ trên vấn đề Ukraina. Khó có thể tin rằng Trung Quốc thật sự đóng vai trò trung gian hòa giải, vãn hồi hòa bình, chấm dứt chiến tranh. Lại càng khó tin hơn vào ý tưởng Bắc Kinh có trọng lượng đủ lớn để can thiệp vào một số quyết định của Matxcơva trong lĩnh vực chính trị và quân sự. Cũng phải nói là ý tưởng đó hoàn toàn sai. Nói cách khác, trong mọi trường hợp, Trung Quốc không đủ ‘nặng’ để có thể tác động đến những quyết định quân sự của Matxcơva trên vấn đề Ukraina ».
Tue, 12 Mar 2024 - 162 - « Tách rời khỏi Trung Quốc »: Trump và Biden đều thất bại
Các dự phóng đều báo trước: Donald Trump và Joe Biden sẽ gặp lại nhau trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 11/2024. Có rất nhiều khác biệt giữa hai ứng cử viên Cộng Hòa và Dân chủ, ngoại trừ mối lo ngại kinh tế và thương mại của Mỹ lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Ở Nhà Trắng, cả hai cùng nỗ lực « tách rời khỏi » Trung Quốc, nhưng gần 8 năm qua, hai đời tổng thống Hoa Kỳ liên tiếp đều đã « thất bại ». Vì sao ?
Tổng thống Joe Biden tranh cử nhiệm kỳ hai với ít nhất một thành tích rõ ràng : Nhập siêu của Mỹ năm ngoái thấp nhất kể từ đầu thập niên 2020. Xuất khẩu tăng so với 2022, trái lại nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ giảm 3,6 %. Điểm nổi bật thứ nhì là Trung Quốc đánh mất danh hiệu đối tác thương mại số một của Mỹ, bị Mêhicô qua mặt. Mậu dịch hai chiều giữa Trung Quốc và Mỹ cùng sụt giảm trong năm 2023 so với 12 tháng trước đó.
Decoupling để rồi lại lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc ?
Theo thống kê của bộ Thương Mại Hoa Kỳ, nhập khẩu với bạn hàng Trung Quốc từ 2017 đã giảm đi 1/3. Cứ trên 100 đô la hàng nhập vào Mỹ, thì chỉ có 14 đô la hàng của « công xưởng lớn nhất trên thế giới ». Cả hai ứng cử viên tổng thống Dân Chủ và Cộng Hòa đều khoe đấy là công lao của mình.
Không thể phủ nhận là Washington đã thu hẹp thâm hụt mậu dịch với Bắc Kinh nhờ các biện pháp trừng phạt và áp thuế nhập khẩu chính quyền Donald Trump ban hành từ 2018 và đã được chính quyền Joe Biden duy trì. Nhưng như tuần báo Anh The Economist hôm 27/02/2024 ghi nhận : sẽ là một sai lầm nếu vội vã kết luận Mỹ thành công trong việc « cai nghiện hàng made in China ».
Tại sao cả Trump và Biden đều thất bại trong việc giảm thâm hụt mậu dịch với Trung Quốc ? Giới quan sát đồng loạt trả lời : Dân Mỹ vẫn ưa chuộng và vẫn cần hàng rẻ của Trung Quốc trong bối cảnh lạm phát kéo dài. Về tài chính, cho đến nay Bắc Kinh vẫn là một chủ nợ chính của Hoa Kỳ, nắm giữ 1200 tỷ đô la công trái phiếu của Mỹ. Về công nghệ cao, những tên tuổi như Hoa Vi hay ZTE của Trung Quốc vẫn vừa là nỗi ám ảnh, vừa là những« miền đất hứa » với nhiều tập đoàn công nghệ cao của Hoa Kỳ.
Cần thận trọng với các thống kê
Điều đầu tiên buộc độc giả thận trọng là khác biệt về thống kê hải quan của Trung Quốc và Mỹ liên quan đến cùng một thời kỳ. Bắc Kinh xác nhận tổng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng 30 tỷ đô la so với tài khóa 2022. Trái lại nhìn từ phía Mỹ, hàng Trung Quốc nhập vào Mỹ giảm 100 tỷ đô la. Vậy biết tin ai bây giờ ?
Yếu tố thứ hai cũng quan trọng không kém. Căn cứ vào các số liệu của Ngân Hàng Phát Triển Á Châu ADB, năm 2017, tức là trước khi chính quyền Trump ban hành các biện pháp áp thuế hàng Trung Quốc, để tạo ra một đô la của cải cho nước Mỹ, các doanh nghiệp Hoa Kỳ sử dụng 0,41 % hàng Trung Quốc. Năm 2022, tỷ lệ này đã bị đẩy lên tới 1,06 %. Điều đó đơn giản cho thấy là Mỹ phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc. Tệ hơn nữa, ngay cả trong lĩnh vực dịch vụ ở Hoa Kỳ, dường như « các hãng Mỹ ngày càng phụ thuộc vào bản quyền hiện đang do một số công ty Trung Quốc nắm giữ ».
Lý do thứ ba là, cho đến hiện tại, không một dấu hiệu nào cho thấy Trung Quốc đầu hàng, nhượng bộ, hay sẵn sàng chia sẻ vị trí chiến lược và then chốt của mình trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong cuộc họp Hội Đồng Kinh Tế tháng 12/2023, Bắc Kinh đã nhắc lại xuất khẩu là một ưu tiên trong chiến lược phát triển quốc gia. Các ngân hàng nhà nước được chỉ thị huy động tín dụng từ trước đến nay dành để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và địa ốc cho khu vực xuất khẩu. Trong bối cảnh đó, The Economist báo trước là rồi đây hàng của Trung Quốc sẽ còn tràn ngập thị trường quốc tế mạnh hơn nữa, chủ yếu là trong lĩnh vực công nghệ và năng lượng xanh. Mỹ tiếp tục là một điểm tiêu thụ chính.
Một mô hình thương mại đường vòng
Tháng 8/2023 cũng tuần báo The Economist đã ghi nhận liên hệ về thương mại và kinh tế giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới đang trở nên « chặt chẽ hơn bao giờ hết », cho dù Trung Quốc không còn là bạn hàng số 1 của Mỹ.
Hai đời tổng thống Mỹ Donald Trump và Joe Biden trên thực tế đã chỉ « vẽ lại » một bản đồ thương mại mới mà ở đó hai cực chính vẫn là Mỹ và Trung Quốc, nhưng thay vì hai siêu cường kinh tế này trao đổi trực tiếp với nhau thì họ đã « đánh đường vòng » đi qua một loạt các trung gian như Ấn Độ, Mêhicô, Đài Loan, hay Việt Nam.
Vào lúc nhập khẩu của Mỹ với Trung Quốc giảm, thì trái lại cán cân thương mại của Mỹ với từ Mêhicô đến Việt Nam hay Đài Loan đã bị thâm hụt nhiều hơn và Mỹ đã mua vào những sản phẩm mà Trung Quốc bán nhiều hơn cho Việt Nam hay Đài Loan, Ấn Độ …
Trả lời đài truyền hình Pháp France 24 hồi tháng 11/2023 sau cuộc gặp rất được chờ đợi giữa tổng thống Joe Biden và chủ tịch Tập Cận Bình bên lề thượng đỉnh Diễn Đàn APEC tại San Francisco, kinh tế gia Jean Paul Chang nhấn mạnh : Mục tiêu decoupling mối liên hệ giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới như Donald Trump và Joe Biden đề xuất là điều không tưởng :
« Cắt đứt liên hệ tài chính là điều bất khả thi. Người ta có thể viện lý do an ninh quốc gia, nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao, để kềm chế đối phương, nhưng chúng ta biết rõ là mỗi biện pháp trừng phạt đó lại càng thúc đẩy bên bị trừng phạt tìm ra những ngõ thoát mới. Nghịch lý ở đây là, càng bị Mỹ kềm tỏa, Bắc Kinh lại càng tăng tốc đầu tư trong các lĩnh vực công nghệ bán dẫn và hight tech. Trung Quốc hào phóng hơn nữa trong các chương trình nghiên cứu, đào tạo nhiều kỹ sư và cả một đội ngũ chuyên gia, khoa học …. Nói cách khác, nếu như có một sự thay đổi trong chuỗi cung ứng toàn cầu, kể cả đối với công nghệ cao, thì lập tức các bên liên quan sẽ tìm cách để thích nghi với tình huống ».
Nhà báo Pierre Antoine Donnet của báo mạng chuyên về châu Á Asialyst giải thích thêm :
« Tách rời khỏi nhau giữa Mỹ và Trung Quốc, hiểu theo đúng nghĩa của nó, là điều hoàn toàn không thể làm được, do các nền kinh tế trên thế giới giờ đây đã đan kết quá chặt chẽ với nhau, đặc biệt là về công nghệ cao. Tuy nhiên, Bắc Kinh lẫn Washington đều đã có một sự uyển chuyển, khi thay thế cụm từ tách rời khỏi nhau –decoupling, bằng derisking, tức là giảm thiểu rủi ro. Chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Ursula von der Leyen là người đưa ra khái niệm này và Hoa Kỳ đã xem đó là một sáng kiến hay. Derisking có nghĩa là trước khi ký hợp đồng với một đối tác nước ngoài, cần cân nhắc về những ‘rủi ro’ bị sao chép, rủi ro về tác quyền, rủi ro công nghệ hay sản phẩm, nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao, có thể bị đối phương sử dụng vào những mục tiêu quân sự … Như vậy có nghĩa là trước khi hợp tác với một doanh nghiệp nước ngoài, cần nghiên cứu và tìm hiểu về những rủi ro có thể xảy ra».
Nhưng liệu Mỹ có thể yêu cầu một doanh nghiệp « nghiên cứu », cân nhắc các rủi ro hay không? Đừng quên rằng, mục tiêu của doanh nghiệp là kiếm lời. Vế an ninh quốc gia tuy quan trọng, nhưng không chắc đó là ưu tiên số một của các doanh nhân Mỹ, như chủ nhân hãng xe Tesla, hay các nhà sản xuất trang thiết bị điện tử.
Cũng trong cuộc trả lời trên đài truyền hình France24 tháng 11/2023, nhà nghiên cứu Mathilde Velliet, thuộc Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp, đang công tác tại Washington, đã đặt quan hệ Mỹ-Trung ở một góc độ khác :
« Bối cảnh hiện nay là một cuộc cạnh tranh rất gay gắt về công nghệ và thực tế đó sẽ còn kéo dài. Thậm chí là cuộc đọ sức có phần gia tăng cường độ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Mỗi bên sẽ mở rộng thêm các biện pháp trừng phạt, cấm đoán, hạn chế các hoạt động của đối phương. Tại Washington chúng ta thấy, tháng 10/2022 chính quyền Biden đã ban hành lệnh cấm nhắm vào các tập đoàn công nghệ Trung Quốc. Đúng một năm sau, chính phủ Mỹ mở rộng thêm danh sách này. Hơn nữa, từ nhiều năm nay Mỹ kiểm soát đầu tư của Trung Quốc vào thị trường nội địa, nhưng từ tháng 8/2023, Nhà Trắng ban hành quyết định kiểm soát luôn cả một số dự án đầu tư của các tập đoàn Mỹ sang Trung Quốc, tránh để công nghệ của Mỹ rơi vào tay Bắc Kinh, đặc biệt là trong lĩnh vực trí thông minh nhân tạo. ( …) Mục tiêu của chính quyền Biden là « bình thường hóa » tất cả những đòn kềm tỏa đó trong bang giao song phương. Tức là Mỹ vẫn duy trì quan hệ ổn định với Trung Quốc, nhưng cũng sẽ tiếp tục ban hành các biện pháp trừng phạt và hạn chế các khoản giao dịch giữa các công ty của hai nước. Về mặt chính trị, trong bối cảnh bầu cử tổng thống 2024, không ai dám mạo hiểm thay đổi lập trường đó, tức là Mỹ sẽ tiếp tục tỏ ra rất cứng rắn với Trung Quốc ».
Biden và Trump giúp Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng qua kênh kinh tế ?
Vẫn báo The Economist tháng 8/2023 lưu ý độc giả rằng chính sách trừng phạt Trung Quốc do hai tổng thống Trump và Biden tiến hành dẫn đến hệ quả là « một phần lớn các nước ở châu Á, Mêhicô và ở một số nơi khác tại châu Âu nhập nhiều hơn hàng của Trung Quốc và qua đó trở nên thân thiện hơn với Bắc Kinh ». Đó cũng là một kênh giúp Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng.
Cách nay 5 năm, trong một chương trình truyền hình của kênh France 5, Alice Ekman, chuyên nghiên cứu về Trung Quốc và điều hành khoa châu Á Viện Nghiên cứu về an ninh châu Âu, đã thấy trước là, càng bị Âu Mỹ trừng phạt, Trung Quốc càng tăng cường quan hệ với Nga :
« Trung Quốc và Nga đã xích lại gần nhau từ 2014 sau khi Matxcơva bị trừng phạt vì thôn tính bán đảo Crimée của Ukraina. Vladimir Putin bắt đầu chính sách ‘đông tiến’ từ đấy. Nhưng rồi Matxcơva liên tục đẩy mạnh hợp tác về năng lượng với Trung Quốc và cũng chờ đợi đón nhận đầu tư của nước này đặc biệt là về công nghệ cao. Trên các hồ sơ lớn về thời sự quốc tế như Syria hay về Biển Đông, tầm nhìn của Nga và Trung Quốc không đối chọi với nhau. Đôi bên cũng đã tiến hành nhiều cuộc tập trận chung ở Địa Trung Hải, trong vùng Biển Baltic hay ở Biển Đông : Trong cuộc chiến thương mại với Hoa Kỳ, Trung Quốc hoàn toàn không bị cô lập như chính quyền Donald Trump mong muốn. Nhưng đây không chỉ có cuộc chiến thương mại, Washington và Bắc Kinh còn đối đầu nhau trên nhiều mặt trận khác và cần theo dõi tình hình ở những điểm nóng trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á ».
Tue, 05 Mar 2024 - 161 - Dầu hỏa : « Hạm đội ma », cánh tay đắc lực giúp Nga lách trừng phạt quốc tế
10 % các tàu chở dầu trên thế giới hiện nay là « tàu ma ». Đó là phương tiện xuất khẩu 70 % dầu hỏa của Nga bằng đường biển. Hạm đội « dark fleet » trên thế giới trong vỏn vẹn một năm đã được nhân lên gấp đôi để cho phép Matxcơva tiếp tục bán dầu hỏa với giá cao hơn giá trần 60 đô la/thùng. « Hạm đội ma » là gì, hoạt động ra sao và đã giúp Nga lách các lệnh trừng phạt của Âu Mỹ đến mức độ nào ?
Qua đó là câu hỏi về tính hiệu quả của các biện pháp cắt nguồn tài trợ cho cỗ máy quân sự của Vladimir Putin, hai năm sau « chiến dịch đặc biệt » xâm chiếm Ukraina.
Hai ngày trước kỷ niệm tròn 2 năm chính quyền Putin đưa quân xâm chiếm Ukraina, hôm 22/02/2024, Hoa Kỳ loan báo ban hành lệnh trừng phạt nhắm vào tập đoàn vận tải đường biển của Nga Sovcomflot và 14 « tàu chở dầu ma » Matxcơva sử dụng.
Từ tháng 12/2022 Liên Hiệp Châu Âu, khối G7 và Úc đã quy định « mức giá trần 60 đô la một thùng dầu ». Đây là giá tối đa mà các thành viên liên minh này có thể mua vào dầu hỏa của Nga. Thêm vào đó, các hãng bảo hiểm tại các quốc gia này bị cấm cung cấp mọi dịch vụ cho các tàu chở dầu của Nga giao dịch trên mức giá trần quy định. Theo một thông cáo của liên minh Âu - Mỹ (UE – G7 và Úc) cuối năm 2023, dưới tác động các biện pháp trừng phạt của phương Tây, « thu nhập của Nga từ các hoạt động xuất khẩu dầu hỏa và các sản phẩm chế dầu giảm 1/3 so với hồi 2022 ».
« Tương kế, tựu kế »
Tại Washington, thứ trưởng Tài Chính Mỹ, Wally Adeyemo giải thích biện pháp áp giá trần đánh vào dầu của Nga tiếp tục phục vụ hai mục tiêu « hạn chế thu nhập của điện Kremlin để tài trợ chiến tranh Ukraina đồng thời duy trì ổn định trên các thị trường năng lược quốc tế ».
Tuy nhiên báo tài chính Anh, Financial Times, tháng 10/2023 trích dẫn « nhiều nguồn tin chính thức » của Liên Hiệp Châu Âu cho biết trong tháng « không một lô dầu xuất khẩu bằng đường biển nào của Nga bán ra với giá dưới 60 đô la/thùng. Theo các thống kê của Matxcơva, Nga xuất khẩu vàng đen với cái giá trung bình hơn 80 đô la » kể cả dầu hỏa của Nga bán cho Liên Âu.
Chính các « Hạm đội ma » đã giải thích cho khác biệt nói trên.
Tạp chí chuyên về vận tải đường biển của Anh Lloyd’s List Intelligence báo động « số lượng tàu thuộc diện hạm đội ma năm ngoái đã tăng lên gấp đôi và chiếm 10 % toàn bộ tàu chở dầu đang hoạt động trên trường quốc tế ». Theo trung tâm nghiên cứu về quan hệ quốc tế Atlantic Council, trụ sở tại Washington, hiện có khoảng 1.400 « tàu ma » đi khắp nơi trên thế giới, chủ yếu là chở dầu của Nga hướng về châu Á, với hai mắt xích quan trọng là Trung Quốc và Ấn Độ.
Nhưng không hẳng đấy là những « điểm đến cuối cùng » của những thùng dầu do Nga sản xuất. Elina Ribakova, Đại Học Kinh Doanh KSE tại Kiev được AFP trích dẫn đi sâu thêm vào chi tiết : 70 % dầu của Nga được chuyên chở bằng đường biển sử dụng « Hạm đội ma ». Chỉ riêng trong tháng 11/2023, đã có 179 tàu chở dầu thuộc diện « dark fleet » rời các hải cảng của Nga. Tháng 10/2023 mỗi ngày Nga « xuất khẩu 2,3 triệu thùng dầu thô và 800.000 thùng dầu lọc bằng phương tiện này ».
Trả lời đài phát thanh France Culture (11/01/2024) Paul Tourret, giám đốc Viện Kinh Tế Hàng Hải của Pháp ISEMAR trước hết phân biệt giữa « Hạm đội ma » còn được gọi là « Hạm đội Đen -Dark fleet » với « Hạm đội Xám -Grey fleet » mà trước Nga, các quốc gia « bất hảo » như Iran, Venezuela hay Bắc Triều Tiên đã sử dụng.
Paul Tourret : « Hạm đội đen xuất hiện từ khi phương Tây ban hành các biện pháp trừng phạt nhắm vào Iran và Venezuela và đương nhiên là đã phát triển mạnh trong ngành vận tải đường biển. Đó là những chiếc tàu không biết thuộc về ai, không có giấy phép hoạt động và không ai giám sát về mức độ an toàn. Số này hoàn toàn ngoài tầm quan sát của các lực lượng tuần duyên, hải quan, ngoài vòng pháp luật… Ước tính có hơn một ngàn tàu thuyền thuộc diện ‘hạm đội đen’ và chúng hoạt động một cách bất hợp pháp ( ...) Bên cạnh đó có những đội tàu thuộc diện hạm đội xám tức là chúng ta biết rõ chúng thuộc về ai,, do công ty nào, quốc gia nào khai thác… Không hẳn họ chuyên chở hàng bất hợp pháp nhưng các đội tàu này tận dụng những kẽ hở hành chính, về pháp lý để chuyên chở hàng bất hợp pháp … ».
Nga đã khai thác một « mô hình » đã có từ trước :
Paul Tourret :« Thoạt đầu, phương Tây ban hành các biện pháp trừng phạt nhắm vào một số các ‘nhà nước côn đồ’ và như đã biết từ khi Nga xâm chiếm Ukraina thì các biện pháp cấm vận đó đã được mở rộng đến một số hoạt động thương mại, kinh tế, tài chính của nước Nga… Trong đó bao hàm luôn cả vế giao thương hàng hải. Vì chiến tranh, Nga đã tận dụng các hạm đội xám, hạm đội đen để lách lệnh trừng phạt quốc tế ».
Nguy cơ tai nạn thủy triều đen
« Đen » hay « xám » thì đó cũng thường là những con tàu cũ kỹ, tối thiểu đã phục vụ trong 20 năm, không thông qua các khâu kiểm tra về các chuẩn mực an toàn. Trung tâm về quan hệ quốc tế Atlantic Council báo động từ nay đến 2025 ước tính « khoảng 11 % các tàu chở dầu trên thế giới đã ngoài 20 năm tuổi » và để so sánh, trước khi nổ ra chiến tranh Ukraina, tỷ lệ này được giữ ở ngưỡng 3 %. Thêm vào đó các « Hạm đội ma » không hề có bảo hiểm về an toàn hàng hải : đó là các khoản bảo hiểm đề phòng cướp biển, đề phòng rủi ro chiến tranh, đề phòng tai nạn hàng hải gây thiệt hại cho môi trường …
Bãi biển của Triniđa và Tobago trong vùng biển Caribê đang bị nạn thủy triều đen đe dọa từ đầu tháng 2/2024 vì sau tai nạn vỡ hầm một con « tàu ma » dài 100 mét, nhưng không biết thuộc về ai… Năm ngoái Malaysia « toát mồ hôi hột » khi tàu dầu cũ kỹ Pablo, chứa hơn 700.000 thùng dầu, nổ và bốc cháy ngoài khơi. Theo các điều tra, tàu dầu Pablo nhẽ ra đã phải được « yên nghỉ » từ 2018 nhưng rồi đã được một tập đoàn vận tải của Ấn Độ mua lại. Từ đó tàu đã nhiều lần đổi chủ và khi xảy ra tai nạn Pablo đang chứa dầu của Nga. Nếu như trước đây con tàu này thường đỗ ở ngoài khơi của Iran và Venezuela hay họa hoằn lắm là của Bắc Triều Tiên để « nhận hàng », thì giờ đây, tàu dầu Pablo sang đến tận Malaysia, nhận những « lô dầu của Nga, để cung cấp ngược trở lại cho các khách hàng ở châu Âu ». Đương nhiên là các nhà điều tra đã không thể tìm ra tông tích chủ tàu dầu Pablo. Không thấy các nhà bảo vệ môi trường lên tiếng trên hồ sơ này.
Chiến lược « tàng hình »
Trả lời kênh truyền thông Euronews, Christopher Weafer, giám đốc công ty tư vấn Macro Advisory Ltd của Anh ghi nhận, chiến thuật của Nga là « biến mất khỏi màn hình radar ». Từ một năm qua, các dịch vụ xuất nhập khẩu dầu hỏa của Nga không còn do các đại tập đoàn năng lượng quản lý nữa. Thay vào đó là « nhiều công ty nhỏ và hoàn toàn không có tiếng tăm » nhưng lại đảm nhiệm khâu vận chuyện cho « hàng triệu thùng dầu sang châu Á. Cũng những công ty này đã nhanh chóng ngừng hoạt động thậm chí mất dạng » khỏi các màn hình radar của các cơ quan có chức năng kiểm soát giao thương hàng hải quốc tế. Vẫn theo lời ông Weafer, « trong trường hợp các giới chức châu Âu phát hiện và nhận diện được những tập đoàn vô danh đó vi phạm lệnh trừng phạt của Âu - Mỹ và bắt đầu cho mở điều tra, thì lập tức những doanh nghiệp và tàu dầu bị nghi ngờ hoạt động trái phép, đổi tên ».
Hơn nữa với đội ngũ « tàu ma », dầu hỏa của Nga từ khi rời các bến cảng cho đến khi được giao cho khách hàng đã « năm lần, bảy lượt được chuyển từ tàu này sang một tàu khác » : đố ai tìm được dấu vết để chứng minh đấy là dầu của Nga.
Từ khi chiến tranh Ukraina khai mào, « Ấn Độ, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ là những nguồn nhập khẩu dầu lớn nhất của Nga » nhưng « một phần lớn trong số đó trước sau gì rồi cũng sẽ quay trở lại châu Âu ». Macro Advisory Ltd thẩm định mỗi ngày có khoảng 1,5 triệu trên tổng số 10 triệu thùng dầu rời các bến cảng của Nga mà « trên giấy tờ là để hướng tới Trung Quốc hay Ấn Độ »nhưng thực ra « chúng được hòa loãng trên thị trường dầu hỏa thế giới » và để bán cho Liên Hiệp Châu Âu.
Tháng 5/2023 New Delhi thông báo hơn 40 % nhập khẩu dầu hỏa của Ấn Độ là do Nga cung cấp. Đầu chiến tranh Ukraina tỷ lệ này là 2 %. Kim ngạch xuất khẩu dầu hỏa của Ấn Độ sang thị trường châu Âu đang từ chưa đầy 300 triệu euro năm 2021 nhảy vọt lên hơn 1 tỷ đô la vào tháng 4/2023. Giới trong ngành châm biếm nhận xét : là đồng minh chiến lược của Âu Mỹ, là đối tác đáng tin cậy của Bruxelles và Washington, điều đó không cấm cản « Ấn Độ là địa điểm tẩy dầu hỏa của Nga từ dầu bẩn thành dầu sạch» để bán lại cho Liên Âu.
Châu Âu vẫn vướng trong vòng luẩn quẩn của dầu hỏa Nga
Cũng Christopher Weafer cho rằng « Liên Âu không thể kiểm tra nguồn gốc dầu nhập vào khối này ». Hơn nữa « phần lớn dầu của Nga bán cho Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ đều quay trở lại thị trường châu Âu ». Điều đó chứng tỏ là biện pháp « áp giá trần 60 đô la/thùng » không có hiệu quả.
Đương nhiên là New Delhi từng khẳng định « mua dầu của Nga không để bán lại cho châu Âu » nhưng rồi cũng chính Ấn Độ đã nhìn nhận là nhờ có chiến tranh Ukraina và các biện pháp cấm vận của Âu Mỹ mà đã « tiết kiệm được 2,7 tỷ đô la trong 9 tháng đầu năm 2023 nhờ nhập khẩu dầu của Nga với giá rẻ ».Vẫn trên đài phát thanh France Culture, giáo sư kinh tế Julien Vercueil Viện Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương INALCO cho rằng, chiến tranh Ukraina kéo dài, thị trường dầu hỏa đã hoàn toàn có thời gian để « thích nghi với tình huống » sau những khó khăn ban đầu vào mùa xuân 2022.
Julien Vercueil :« Đã có một sự chuẩn bị cho những loạt trừng phạt đầu tiên nhắm vào nước Nga, chính xác hơn là nhắm vào hệ thống tài chính của Nga. Lập tức Nga gặp khó khắn, thí dụ như đồng rúp trượt giá, thị trường tài chính Matxcơva phải tạm đóng cửa, lạm phát dâng cao khi mà đồng tiền bị phá giá. Nhưng rồi chiến tranh kéo dài, chính quyền Nga đã ‘tương kế tựu kế’ để khắc phục những khó khăn đó. Quan trọng nhất là vẫn giữ được các nguồn thu nhập có được nhờ dầu hỏa, khí đốt. Chính vì chiến tranh, giá dầu bị đẩy lên cao, như chúng ta đã biết. Các tập đoàn dầu khí của Nga có lãi vô cùng và đó là nguồn tài trợ cho cỗ máy chiến tranh của Vladimir Putin. Không chỉ có phía Nga đã thích nghi với tình huống. Âu - Mỹ cũng đã điều chỉnh cỗ máy trừng phạt để tiếp tục chận các nguồn thu nhập của Matxcơva với hy vọng giảm thiểu khả năng đài thọ các phí tổn chiến tranh ».
Nga hiện vẫn là nguồn sản xuất dầu hỏa lớn thứ nhì trên thế giới và mặc dù kinh tế Nga đã chịu 13 đợt trừng phạt của Liên Âu nhưng dầu khí, phân bón, khoáng sản của Nga vẫn là nguồn thu vào ngoại tệ, cho phép Matxcơva tiếp tục đài thọ cuộc chiến ở Ukraina.
Giới quan sát đồng loạt ghi nhận : Nga khai thác các « đội tàu ma » để tiếp tục xuất khẩu dầu thô, dầu lọc và rất nhiều sản phẩm chế dầu. Ở góc đài bên kia, liên minh Âu Mỹ đã mất cả năm mới đạt được đồng thuận để « trừng phạt, phong tỏa dầu hỏa của Nga ». Phương Tây cũng cần có thời gian để chuẩn bị trước khi « cai nghiện » dầu hỏa, khí đốt của Nga. Song ngay cả việc áp giá trần 60 đô la một thùng dầu của Nga xuất khẩu bằng đường biển, các chuyên gia đồng loạt cho rằng, Âu Mỹ vừa muốn đánh vào túi tiền của tổng thống Putin, vừa muốn tránh để tạo nên một cuộc khủng hoảng dầu hỏa, khi mà không một giọt dầu nào của Nga có thể bán ra cho thế giới bên ngoài. Kinh tế gia Julien Vercueil thuộc viện INALCO phân tích :
Julien Vercueil :« Dầu hỏa là tâm điểm trong số những khả năng của Nga để tài trợ chiến tranh. Dù vậy Liên Âu đã mất cả năm 2022 để tẩy chay năng lượng của Nga. Đến cuối 2022 Bruxelles và một số các đối tác trong khối G7 và Úc … mới đồng ý về mức giá trần để mua vào dầu thô và dầu lọc của Nga. Cùng lúc Liên Âu cũng tìm cách gây khó khăn cho Matxcơva trong các dịch vụ xuất khẩu dầu hỏa cho các đối tác khác ngoài châu Âu và liên minh phương Tây. Bruxelles nhắm tới lĩnh vực vận tải đường biển. Tính toán đó đặt ra hai vấn đề cho phương Tây. Thứ nhất là nếu phong tỏa toàn bộ mọi khả năng xuất khẩu dầu lửa của Nga, thì sẽ lại càng gây nên một cơn sốt dầu, tác hại đến kinh tế toàn cầu. Đó là điều mà Âu Mỹ không mong muốn. Điểm thứ nhì là Liên Âu muốn bớt lệ thuộc vào năng lượng của Nga, nhưng vẫn muốn rằng các biện pháp trừng phạt Matxcơva không là gánh nặng ảnh hưởng đến đời sống của người dân châu Âu ».
Sự hiện diện và các hoạt động dồn dập của những « hạm đội Ma » trong lĩnh vực xuất khẩu dầu hỏa của Nga cho thấy : thứ nhất, Liên Âu vẫn « nghiện » năng lượng của Nga. Thứ hai là trong các hoạt động không minh bạch đó, các tập đoàn dầu khí Nga đã được từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Ấn Độ và cả Hy Lạp cùng nhiều quốc gia phương tây khác, những điểm tựa vững chắc của Ukraina tiếp tay.
Về phía Bruxelles đành phải nhắm tới mục tiêu dài hạn : các thông cáo chính thức vẫn xác nhận cho đến giữa năm 2023 các nguồn thu nhập dầu hỏa của Nga giảm 50 % dưới tác động « đòn trừng phạt giá trần 60 đô la một thùng dầu ». Phương Tây không muốn « gạt Nga ra ngoài thị trường dầu hỏa thế giới mà chỉ muốn thu hẹp mức lãi của các tập đoàn Nga từ các hoạt động xuất khẩu năng lượng » và nhất là « về lâu dài, cô lập các nhà sản xuất Nga với công nghệ tiên tiến ở các khâu thăm dò, khai thác và lọc dầu ».
Tue, 27 Feb 2024 - 160 - « Quy chế ưu đãi » cho tàu chở hàng của Nga ở Hồng Hải
Matxcơva đã làm những gì để giảm thiểu căng thẳng ở Hồng Hải, một « xa lộ giao thương quốc tế », cửa ngõ đưa ngũ cốc, khoáng sản, dầu khí của Nga xuất phát từ Biển Đen sang châu Phi, châu Á ? Bất ổn tại eo biển Bad Al Mandeb, nối liền Hồng Hải với Vịnh Aden, mở ra Biển Ả Rập và Ấn Độ Dương có lợi cho Nga hay không ? RFI tiếng Việt mời Igor Delanoë phó giám đốc Đài Quan Sát Pháp -Nga tại Matxcơva trả lời các câu hỏi trên.
Bất ổn tại Hồng Hải đe dọa giao thương quốc tế và bắt đầu làm xáo trộn các nguồn cung cấp nông phẩm cho một phần nhân loại như Viện Nghiên Cứu về Chính Sách Thực Phẩm Quốc Tế IFPRI, trụ sở tại Washington, đã báo động. Hồng Hải là cửa ngõ nối liền Ấn Độ Dương với Địa Trung Hải thông qua con kênh đào Suez trên lãnh thổ Ai Cập, mang tính thiết yếu đối với thị trường năng lượng, và nguyên liệu. Tổng thống Fattalh Al Sissi hôm 19/02/2024 báo động Ai Cập đang bị vạ lây thu nhập của tập đoàn khai thác kênh đào Suez, sụt giảm mất « từ 40 đến 50 % » do bất ổn ở Hồng Hải.
Trong trường hợp của Nga, giao thương lệ thuộc nhiều hơn vào Hồng Hải từ khi tổng thống Putin khởi động chiến tranh Ukraina và châu Á thay thế châu Âu trở thành thị trường quan trọng nhất của Nga.
Từ giữa tháng 11/2023 để « thể hiện đoàn kết với người Palestine ở Gaza » phe nổi dậy Hồi Giáo Houthi tại Yemen được Iran tài trợ và cung cấp vũ khí, bắn phá vào các tàu dân sự chở hàng, vào các tàu dầu của các quốc gia yểm trợ Israel.
Liên minh quân sự Anh Mỹ phối hợp hành động diệt trừ mối đe dọa Houthi ở Hồng Hải và đã liên tục oanh kích vào các sào huyệt của phe Houthi trên lãnh thổ Yemen. Liên Âu hôm 19/02/2024 thông báo khởi động sáng kiến « Aspides » để bảo vệ tàu đi qua eo biển Bab Al Mandeb ở Hồng Hải.
Bắc Kinh kích hoạt kênh ngoại giao với Teheran để làm hạ nhiệt tình hình, hòng bảo đảm các các hoạt động xuất nhập khẩu nối liền Hoa Lục với các đối tác châu Âu, châu Phi và Trung Cận Đông, cho dù ngày 19/01/2024 cũng phe Houthi đã tuyên bố « bảo đảm an toàn » cho tàu của Trung Quốc và Nga.
Thương mại Nga xoay trục sang châu Á
Về phía Matxcơva, đầu năm 2024, đại sứ Nga tại Liên Hiệp Quốc bày tỏ « quan ngại » về tình hình ở Hồng Hải và đã nêu bật những « rủi ro » đối với giao thương quốc tế và quyền tự do lưu thông trên biển. Điều đó không cấm cản điện Kremlin lên án liên quân Anh Mỹ « không có lý do chính đáng » để oanh kích vào các căn cứ của quân Houthi trên lãnh thổ Yemen. Song Matxcơva hôm 10/01/2024 đã tránh dùng quyền phủ quyết bác bỏ nghị quyết 2722 của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đòi lực lượng Houthi « ngừng ngay lập tức » mọi tấn công nhắm vào tàu chở hàng và phóng thích tàu hàng Israel Galaxy Leader và thủy thủ đoàn.
Hãng tin Anh Reuters ghi nhận tính đến ngày 01/02/2024 tàu chở dầu của Nga vẫn tiếp tục đi qua Hồng Hải và không bị quân nổi dậy Houthi quấy nhiễu. Đây là điều hết sức quan trọng do giao thương quốc tế của Nga « lệ thuộc nhiều hơn vào kênh đào Suez và Hồng Hải từ khi Matxcơva đưa quân xâm chiếm Ukraina ».
Dưới tác động hơn một chục đợt trừng phạt của Liên Hiệp Châu Âu, xuất nhập khẩu của Nga chuyển hướng sang Trung Quốc và Ấn Độ.
Trả lời đài RFI Việt ngữ, Igor Delanoë phó giám đốc Đài Quan Sát Pháp -Nga tại Matxcơva phân tích thêm về tầm mức quan trọng của Hồng Hải đối với xuất nhập khẩu của Nga, đặc biệt là ở vào thời điểm nay, sau gần hai năm kinh tế Nga bị phương Tây trừng phạt :
Igor Delanoë : « Đương nhiên về thương mại, Hồng Hải là một trục giao thông quan trọng đối với Nga. Vùng biển này là sự tiếp nối cho hàng của Nga từ Hắc Hải, tức là Biển Đen đi tiếp sang các thị trường ở châu Phi và châu Á. Hồng Hải đặc biệt là tuyến đường thiết yếu để xuất khẩu nông phẩm, ngũ cốc và xăng, dầu. Đây cũng là cửa ngõ đưa các tàu chở ngũ cốc của Nga từ bến cảng Taman, tàu dầu của Nga từ cảng Novorossiysk ở Biển Đen phải đi qua, trước khi đến được châu Á, châu Phi. Năm ngoái có từ 43 đến 45 triệu tấn ngũ cốc của Nga đã phải trung chuyển qua Hồng Hải và như đã biết Nga trở thành nguồn cung cấp dầu hỏa lớn nhất cho Trung Quốc. Cũng trong năm 2023 Nga đã xuất khẩu khoảng 100 triệu tấn dầu sang Trung Quốc qua ngả Hồng Hải (…) Cho đến thời điểm hiện tại, tàu chở hàng và chở dầu của Nga tương đối ít bị tấn công và vẫn tiếp tục sử dụng tuyến đường biển này chứ không phải đánh đường vòng xuống tận Mũi Hảo Vọng ở cực nam châu Phi. Tàu thuyền Nga vẫn tấp nập đi trong khu vực Hồng Hải ».
Hồng Hải và những thu nhập để tài trợ cỗ máy chiến tranh
Cùng với Ukraina, Nga là một trong những ba nguồn cung cấp ngũ cốc hàng đầu thế giới, Hồng Hải và cửa ngõ kênh đào Suez của Ai Cập cũng là một « đồng minh » quý giá giúp kinh tế Nga vẫn có thu nhập để tài trợ cho cỗ máy chiến tranh mà điện Kremlin gọi là « chiến dịch quân sự đặc biệt ».
Igor Delanoë : « Trên thị trường ngũ cốc, hiện nay chúng ta đang ở giữa vụ mùa 2023/2024, vụ mùa luôn bắt đầu vào tháng 7. Như vậy là trong 6 tháng đầu -tức là từ tháng 7/2023 đến tháng 1/2024, Nga đã xuất khẩu từ 35 đến 36 triệu tấn ngũ cốc sang các thị trường như là Thổ Nhĩ Kỳ, Algérie, Ai Cập trong vùng Địa Trung Hải. Các nhà sản xuất Nga đã bắt rễ vào nhiều thị trường mới như là Pakistan, Bangladesh và Indonesia hay Nam Phi, Tanzania … Theo các thống kê, kim ngạch xuất khẩu ngũ cốc của Nga tăng từ 100 đến 150- và thậm chí là 160 % trong nửa đầu của vụ mùa 2023/2024 và rất có thể là các nguồn cung cấp của Nga sẽ giữ được nhịp độ này trong sáu tháng còn năm nay. Matxcơva đang đề ra những mục tiêu đầy tham vọng về khả năng xuất khẩu nông phẩm, ngũ cốc, mà Việt Nam là một trong những khách hàng đã nhập khẩu nhiều trong sáu tháng vừa qua, Nam Phi cũng vậy ».
Các tập đoàn vận chuyển đường biển lớn trên thế giới từ CMA CGM đến Maersk hay COSCO (Trung Quốc) và các công ty dâu khí như BP, Shell đều tránh né vịnh Bad Al Mandeb, giao thương trong khu vực « giảm 45 % trong hai tháng đầu 2024 qua ngả kênh đào Suez ». Trái lại theo ghi nhận của Đài Quan Sát Pháp -Nga có vẻ như đang được « hưởng quy chế ưu đãi »
Igor Delanoë : « Từ đầu tháng 12/2023 khi mà tình hình ở Hồng Hải nóng lên, phía Nga ghi nhận hai sự cố, một do bị quân Houthi ngắm nhầm nhưng tàu hàng không bị hư hại. Còn trong vụ thứ nhì, tàu đã bị hỏng nhẹ nhưng vẫn có thể tiếp tục hành trình. Hai sự cố trong suốt những tháng qua là tương đối ít so với thiệt hại của những nước khác. Trong khi đó thì những tập đoàn vận tải đường biển như CMA CGM (của Pháp), MSC (của Ý và Thụy Sĩ) hay Maersk (của Đan Mạch) … đều đã tránh đi qua Hồng Hải để khỏi là mục tiêu của phe nổi dậy Yemen Houthi ».
Quy chế ưu đãi cho tàu của Nga ?
« Quy chế ưu đãi đó » có được phải chăng do ảnh hưởng của Nga qua trung gian Iran với lại phe nổi dậy Hồi Giáo ở Yemen Houthi, bởi vì Matxcơva và Teheran được cho là vẫn có quan hệ « mật thiết » ?
Igor Delanoë : « Ảnh hưởng của Nga đối với phe Houthi trong vùng biển này khá hạn chế. Tiếng nói của Iran mới có trọng lượng đối với phong trào nổi đậy ở Yemen này và như vậy tức là Nga phải đi qua trung gian của Iran. Tuy nhiên Matxcơva không có khả năng làm thay đổi đường lối của phe Houthi cũng như là với Iran về những diễn tiến ở Hồng Hải. Đương nhiên là lợi ích của Nga là hạ nhiệt tình hình ở Hồng Hải và nhất là tránh để căng thẳng ở đây xấu đi thêm. Nhưng những hành vi của quân Houthi ở Hồng Hải đang bất lợi cho Mỹ và châu Âu. Nhìn từ phía Nga thì tất cả những gì bất lợi cho Âu Mỹ đều tốt cả, với điều kiện là tình hình không xấu đi thêm ».
Houthi phá rối phương Tây, 3 điềm tốt cho Nga
Cụ thể hơn, trước mắt quyền lợi của Nga ở khu vực Hồng Hải ít bị xáo trộn như vừa nói, đồng thời những vụ bắn phá của quân Houthi buộc cộng đồng quốc tế, buộc các giới chức quân sự của Âu Mỹ phải chú trọng đến vùng biển này qua đó, « bớt tập trung vào Ukraina ».
Lợi thế thứ nhì, trong mắt Matxcơva là việc các tàu chở hàng của phương Tây, phải đánh đường vòng đi qua Mũi Hảo Vọng, các chi phí vận chuyển tốn kém hơn, nguy cơ hàng giao không kịp gây tắc nghẽn dây chuyền sản xuất … ảnh hưởng đến kinh tế của Âu Mỹ cũng là những « điểm tốt ».
Điểm thứ ba như một số các trang mạng về quân sự của Mỹ báo động Lầu Năm Góc đang huy động tên lửa hiện đại trị giá có khi lên tới cả triệu đô la mỗi chiếc để tiêu diệt drone rẻ tiền của phe nổi dậy Yemen và cùng lắm là để tiêu diệt tên lửa rẻ tiền do Iran chế tạo. Nói cách khác cuộc xung đột bất tương xứng này đang làm hao mòn kho vũ khí đạn dược hiện đại của cỗ máy quân sự lợi hại nhất thế giới. Đó là điều « rất thú vị » đối với Matxcơva.
Tue, 20 Feb 2024 - 159 - Indonesia, một cường quốc khu vực trước cuộc đọ sức Mỹ - Trung
Jakarta chuẩn bị khép lại 10 năm thời đại « Jokowi ». Trong hai nhiệm kỳ, tổng thống Joko Widodo đã đặt Indonesia vào « trung tâm của chuỗi cung ứng toàn cầu », và một quốc gia tiên phong về công nghệ xanh. Thách thức đối với chính quyền sắp tới là « khả năng khá giới hạn » của một cường quốc khu vực trong cuộc đối đầu Mỹ-Trung theo phân tích của chuyên gia về châu Á, Hubert Testard trường Khoa Học Chính Trị Paris, và phụ trách báo mạng Asialyst.
Ngày 14/02/2024, cử tri Indonesia bầu lại tổng thống, Quốc Hội và khoảng 20.000 dân biểu cấp địa phương. Indonesia là một trong những thành viên ban đầu của khối ASEAN, là quốc gia Đông Nam Á duy nhất tham gia G20, câu lạc bộ quy tụ 20 nền kinh tế phát triển nhất. Là quốc gia Hồi Giáo lớn nhất thế giới, lại là cửa ngõ giữa Ấn Độ và Thái Bình Dương, là gạch nối giữa châu Á và châu Đại Dương, Indonesia có rất nhiều lợi thế để tất cả các siêu cường trên thế giới phải quan tâm.
Sau 10 năm cầm quyền, Jokowi chuẩn bị chuyển giao quyền lực vào lúc ông vẫn được ba phần tư dân chúng tín nhiệm. Trên trường quốc tế, tổng thống Joko Widodo là đối tác được nể trọng và thân thiện với cả Washington đến lẫn Matxcơva, với Bắc Kinh cũng như Canberra hay Paris, Bruxelles và nhất là với Tokyo, Seoul hay với các nước Đông Nam Á.
Thành tích mở mang Indonesia
Trước hết đối với kinh tế Indonesia trong hai nhiệm kỳ vừa qua, ông Joko Widodo đã mang lại những gì cho đất nước ? RFI tiếng Việt đặt câu hỏi với Hubert Testard, chuyên gia về châu Á, giảng dậy tại trường Khoa Học Chính Trị Paris Sciences Po, và cũng là một trong những cây bút chính của trang mạng Asialyst.
Hubert Testard: « Kinh tế Indonesia khá ổn định, với tỷ lệ tăng trưởng trong dài hạn trung bình ở mức 5 % một năm. Indonesia cũng đã khá vững vàng trong bối cảnh lãi suất ngân hàng trên thế giới liên tục tăng lên. Tuy nhiên đại dịch Covid cũng đã tác động mạnh đến kinh tế quốc gia Đông Nam Á này - nhất là trong giai đoạn 2020 và 2021. GDP của Indonesia khi đó đã mất khoảng 0,7 %. Điều đó cũng có nghĩa là một phần dân số nước này dễ bị đẩy vào cảnh nghèo khó, thị trường lao động cũng bị ảnh hưởng theo. Hiện tại lạm phát đè nặng lên đời sống của nhiều người, nhất là khi mà giá cả nhu yếu phẩm -như đường hay gạo tăng lên. Tổng thổng tương lai sẽ phải chú ý và sẽ phải giải quyết những vấn đề xã hội (...)
Nhìn chung thành tích kinh tế của tổng thống mãn nhiệm Joko Widodo khá tốt. Tất cả không phải là màu hồng nhưng trong 10 năm qua, ông đã tạo lực đẩy để phát triển cơ sở hạ tầng - mà đây là một nhược điểm lớn của Indonesia. Chính quyền Joko Widodo cũng đã tìm cách đặt Indonesia vào trung tâm chuỗi cung ứng qua việc phát triển công nghiệp khai thác quặng mỏ như mỏ beauxite, nikel… Để đạt được mục tiêu đó, Jakarta cần đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trên điểm này, Indonesia đã khá thành công và đang trở thành một mắt xích quan trọng của tiến trình chuyển đổi năng lượng tại Châu Á. Không chỉ có nguyên liệu để chế tạo bình điện mà tham vọng sắp tới đây của Indonesia là phát triển cả ngành công nghiệp ô tô điện ».
Vẫn theo Hubert Testard, nhờ đầu tư và các doanh nghiệp Trung Quốc, xuất khẩu nikel tinh chất của Indonesia trong giai đoạn 2016 -2022 đã được « nhân lên gấp 30 lần ». Indonesia đang trở thành nhà máy sản xuất bình điện cho xe ô tô để cung cấp cho các hãng xe từ BYD của Trung Quốc đến Huyndai của Hàn Quốc.
Dù phải đối phó với khủng hoảng Covid và lạm phát do chiến tranh Ukraina gây nên, Jakarta vẫn giữ được thâm hụt ngân sách nhà nước ở mức 3 % GDP. Nợ công chỉ tương đương với 37 % tổng sản phẩm nội địa, mà gần ¾ trong số đó là nợ do chính người dân Indonesia nắm giữ. Khác với ở Trung Quốc chẳng hạn, hệ thống tài chính và ngân hàng của Indonesia được giới trong ngành đánh giá là « vững chắc ».
Năm 2022 tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Indonesia (FDI) đạt mức cao chưa từng thấy 44 tỷ đô la để rồi đến 2023 lại đạt thành tích mới với 47 tỷ. Gần một nửa các khoản đầu tư nói trên hướng về các dự án khai thác quặng mỏ và ngành luyện kim.
Con đường tơ lụa gắn kết Indonesia với Trung Quốc
Tổng thống Joko Widodo được dân chúng thân mật gọi là ông Jokowi, ngoài ra, ông còn có biệt danh là « Bapak Infrastruktur » bởi trong 10 năm cầm quyền, ông đã dốc lòng xây dựng cơ sở hạ tầng và dựa vào dự án Con Đường Tơ Lụa mới của ông Tập Cận Bình. Trung Quốc đương nhiên « đánh cược » vào Indonesia để mở rộng ảnh hưởng ở Ấn Độ -Thái Bình Dương.
Theo thống kê của ngân hàng Indonesia Maybank, năm 2022, Trung Quốc đầu tư vào ASEAN gần 17 tỷ đô la và « 13,7 tỷ trong số đó là để rót vào Indonesia và Hồng Kông ». Vậy có thể nói Indonesia phát triển mạnh nhờ đầu tư từ dự án Con Đường Tơ Lụa mới của Trung Quốc ?
Hubert Testard: « Hai vế ấy đi đôi với nhau, vì để phát triển cơ sở hạ tầng, Indonesia cần vốn đầu tư của trong và ngoài nước khi mà ngân sách của chính phủ thì có hạn. Trung Quốc đã sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đó. Chúng ta thấy qua dự án đường xe lửa cao tốc nối liền thủ đô Jakarta với thành phố Bandung. Công trình do Trung Quốc thực hiện và tài trợ, nhưng đây không là dự án duy nhất. Trung Quốc chiếm vị trí rất lớn tại Indonesia nhất là trên thị trường nguyên liệu. Indonesia giờ đây hầu như không còn xuất khẩu nikel thô nữa mà đó là nikel tinh chất để được sử dụng ngay trong việc sản xuất bình điện ô tô. Có dự án Con Đường Tơ Lụa mới hay không, thì tôi cho rằng Trung Quốc cũng vấn hiện diện ở Indonesia như thường. Trong khá nhiều lĩnh vực họ gần như là trong thế ‘song quyền’ cùng với Indonesia để khai thác tài nguyên ».
An ninh biển vì lòng tham của Trung Quốc
Như đã nói ở trên, Indonesia là cửa ngõ giữa Ấn Độ với Thái Bình Dương, là gạch nối giữa châu Á với châu Đại Dương. Quốc gia này làm chủ trên dưới 17 ngàn hòn đảo lớn nhỏ trải rộng trên hơn 5 ngàn cây số từ đông sang tây, hơn 2 ngàn cây số từ nam chí bắc. Jakarta hoàn toàn ý thức được là sự thịnh vượng tùy thuộc vào ổn định và an ninh trên biển.
Ít ồn ào hơn Philippines hay Việt Nam nhưng Indonesia cũng là một nước có tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc, chung quanh quần đảo Natuna ở Biển Đông.
Trong một nghiên cứu hồi 2023, luật gia Daniel Peterson thuộc đại học Melbourne - Úc, được báo Le Monde trích dẫn cho rằng, hợp tác chặt chẽ về kinh tế giảm thiểu tham vọng của Bắc Kinh lấn át chủ quyền của Jakarta trong vùng đặc quyền kinh tế ZEE ở Biển Đông, nhưng đồng thời đầu tư của Trung Quốc bắt rễ sâu vào các hoạt động kinh tế của Indonesia cũng là một dạng « con ngựa thành Troie » khi mà đấy là những « mảng đầu tư mang tính chiến lược lâu dài » cho phép Bắc Kinh « hiện diện dài lâu ở bên trong lãnh thổ của Indonesia, mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc với khu vực » và vẫn theo chuyên gia này Indonesia đã trở thành « tâm điểm trong số những mục tiêu địa chính trị của Trung Quốc » ở Ấn Độ Thái Bình Dương.
Trong cuộc đua kế vị tổng thống Joko Widodo, đương kim bộ trưởng Quốc Phòng Indonesia Prabowo Subianto được coi là người có nhiều triển vọng hơn cả. Ông này từng là đối thủ của Jokowi nhưng nay lại được tổng thống sắp mãn nhiêm ủng hộ. Bằng chứng rõ rệt nhất là con trai cả của Joko Widodo, mới 36 tuổi, đứng liên danh, ra tranh chức phó tổng thống cùng với ông Prabowo Subianto.
Chuyên gia châu Á Hubert Testard ghi nhận : Indonesia là quốc gia Hồi Giáo đông dân nhất thế giới và có lập trường bênh vực người Palestine trong cuộc xung đột ở Gaza, Cận Đông. Về chiến tranh Ukraina công luận thiên về phía Nga vì tinh thần bài Mỹ. Cả hai cuộc xung đột ấy cùng ngoài tầm ảnh hưởng của Jakarta. Hơn nữa từ khi giành được độc lập năm 1945, nguyên tắc ngoại giao của là bắt tay với tất cả các bên, nên dưới đời tổng thống nào đi chăng nữa Indonesia vẫn sẽ giữ thế « trung lập ». Đấy cũng sẽ là kim chỉ nam trong chính sách đối ngoại của Indonesia trong trường hợp hai siêu cường kinh tế thế giới là Hoa Kỳ và Trung Quốc lao vào một cuộc đối đầu
Hubert Testard :« Trong cuộc đối đầu Mỹ- Trung Quốc, khả năng của Indonesia giảm thiểu căng thẳng ở khu vực châu Á khá hạn hẹp bởi vì hai siêu cường thế giới này có những tính toán riêng, hoàn toàn độc lập với những yếu tố bên ngoài hay là của các quốc gia tại khu vực liên quan. Song chính sách đối ngoại của Jakarta từ trước đến nay vẫn rõ ràng đó là quyết tâm bắt tay với tất cả các bên. Indonesia có mối bang giao hữu hảo với cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ. Với Bắc Kinh thì đấy là vì lợi ích kinh tế và Jakarta tránh để làm phật lòng Trung Quốc trừ phi mà ông Tập Cận Bình cho tàu thuyền thâm nhập vào các vùng biển thuộc chủ quyền của Indonesia. Thế còn đối với Mỹ, ứng viên tổng thống được cho là có nhiều triển vọng nhất hiện nay là đương kim bộ trưởng Quốc Phòng ông Prabowo Subianto, thì có khuynh hướng thân phương Tây. Chính dưới nhiệm kỳ của ông, Indonesia ngừng trang bị Sukhoi của Nga để mua chiến đấu cơ Rafale của Pháp và F15 của Mỹ. Hiện tại về mặt quân sự, Indonesia giữ khoảng cách với Nga và hướng nhiều hơn tới phương Tây ».
Tuy nhiên ngay cả trên những hồ sơ mang tính khu vực, Hubert Testard cũng cho rằng, khả năng can thiệp của Indonesia cũng không nhiều. Điều đã được chứng minh qua vấn đề của Miến Điện. Tổng thống mãn nhiệm Joko Widodo cũng như là người sắp thay thế ông, đều sẽ tập trung vào việc tăng cường khả năng phòng thủ -nhất là trên biển của Indonesia
Hubert Testard: « Quân đội Indonesia cần được hiện đại hóa. Đứng đầu bộ Quốc Phòng, ông Pabowo đã bắt đầu làm việc này và theo tôi thì ở cương vị tổng thống, ông sẽ tiếp tục đi theo chiều hướng đó. Nghĩa mở rộng và tăng cường khả năng chiến đấu cho quân đội Indonesia. Jakarta sẽ tăng chi phí quốc phòng và tăng ngân sách mua trang thiết bị quân sự. Chắc chắn là ông sẽ chú trọng đến bên Hải Quân, vì Indonesia cần tăng cường khả năng răn đe cho các lực lượng trên biển, nhất là trước những tham vọng của Trung Quốc. Hiện tại quốc gia Đông Nam Á này trong thế châu chấu đá voi : Jakarta có khoảng 8 khinh hạm, trong lúc của Trung Quốc là hơn 40 chiếc, Indonesia có 4 tàu ngầm thì Hải Quân Trung Quốc có hơn 60 chiếc. Trung Quốc bị coi là mối đe dọa chính vì những đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông ».
Tue, 13 Feb 2024 - 158 - Thấy gì từ vụ chi nhánh Evergrande ở Hồng Kông bị giải thể ?
Ai bị thiệt thòi hơn cả từ vụ chi nhánh tập đoàn địa ốc Evergrande tại Hồng Kông bị « giải thể » ? Đây là hồi kết của mọi nỗ lực thu hút đầu tư ngoại quốc vào Trung Quốc hay là bước ngoặt trong chính sách kinh tế của Bắc Kinh ?
Ngày 29/01/2024 một tòa án Hồng Kông ra phán quyết « giải thể » Evergrande. Tại Luân Đôn, tờ Financial Times báo trước, « sự sụp đổ của tập đoàn địa ốc mang nợ nhiều nhất trên thế giới sẽ mở ra một giai đoạn đầy sóng gió » cho Trung Quốc. Báo tài chính Mỹ The Wall Street Journal nói đến « dấu chấm hết sau một giai đoạn hấp hối đã kéo dài » từ một tập đoàn bị phá sản với « những tác động làm rung chuyển nền kinh tế thứ hai toàn cầu ». Nhưng đây chỉ là quân « đô mi nô đầu tiên bị đổ » hay là lớp sóng ngầm ?
Trang mạng kinh tế Axios cũng của Mỹ xem vụ tài sản của Evergrande bị thanh lý là dấu hiệu « kinh tế Trung Quốc đang xấu đi », « thị trường bất động sản nước này lún sâu thêm vào khủng hoảng và sẽ tác động đến những lĩnh vực khác của nền kinh tế Trung Quốc ». Một nhà quan sát Trung Quốc thuộc viện nghiên cứu Mars Data nói đến một « vố đau giáng xuống Trung Quốc » vào lúc Bắc Kinh cố gắng tổ chức lại giảm bớt nạn « chi tiêu vô độ ».
Từ biểu tượng của thành công đến biểu tượng của khủng hoảng
Cách nay gần 30 năm, ông vua địa ốc Hứa Gia Ấn lập ra Evergrande, trụ sở tại Quảng Châu- Hoa Lục. Công ty này nhanh chóng trở thành một biểu tượng của phép lạ kinh tế Trung Quốc. Hiện diện tại hơn 170 thành phố, Evergrande tham gia sàn chứng khoán Hồng Kông, rồi trở thành một trong những nhà môi giới bất động sản lớn nhất thế giới. Sức mạnh đó cho phép Evergrande -còn được biết đến dưới cái tên Trung Quốc là tập đoàn Hằng Đại -Hengda, mạo hiểm trong nhiều lĩnh vực khác từ bảo hiểm nhà đất, đến y tế, công nghiệp xe điện …
2021, gió đã xoay chiều. Theo báo cáo được công bố tháng 6/2023 Evergrande mang nợ 328 tỷ đô la -tương đương với gần 3 % GDP của Trung Quốc. Evergrande đã trở thành biểu tượng của khủng hoảng địa ốc vô tiền khoáng hậu mà đã hơn hai năm qua, Bắc Kinh vẫn chưa có liều thuốc trị liệu.
"Không có chuyện Evergrande bị khai tử"
Trả lời RFI Việt ngữ, nhà báo Pierre Antoine Donnet, một cây bút của tờ báo mạng chuyên về châu Á Asialyst trước hết giải thích về phán quyết của tòa án Hồng Kông hôm 29/01/2024 và ông nhấn mạnh vì sao « thủ tục thanh lý tài sản của Evergrande » sẽ kéo dài cho dù chỉ liên quan đến phần tài sản thuộc sở hữu của chi nhánh ở Hồng Kông. Đồng thời Pierre Antoine Donnet hoàn toàn loại trừ khả năng vì một phán quyết của Hồng Kông mà Evergrande sẽ « bị xóa sổ ».
Pierre Antoine Donnet : « Một tòa án Hồng Kông có thẩm quyền tuyên bố giải thể Evergrande do tập đoàn môi giới địa ốc này có chi nhánh ở Hồng Kông. Trên nguyên tắc và bình thường ra, điều đó có nghĩa là tài sản của Evergrande sẽ bị chia nhỏ ra và để bán lại cho ngân hàng, cho các nhà đầu tư hay doanh nghiệp, các quỹ tư nhân nào đó… Trong mọi trường hợp thủ tục sẽ kéo dài bởi vấn đề ở đây là một tòa án Hồng Kông căn cứ vào luật của Hồng Kông để giải thể Evergrande. Nhưng luật doanh nghiệp Hồng Kông rất khác so với của Hoa Lục. Hơn 90 % tài sản của Evergrande là ở Hoa Lục. Chỉ có các tòa án ở Hoa Lục mới có đủ thẩm quyền và có tiếng nói sau cùng về số phận Evergrande. Như đã biết, luật pháp Trung Quốc trong tay Đảng Cộng Sản nước này. Chỉ có Đảng mới có có thể quyết định có giải thể Evergrande hay không và nếu có thì khi nào.
Lúc này Trung Quốc đang sửa soạn đón Tết âm lịch, chẳng mấy ai quyết định bất cứ điều gì về Evergrande trong lúc này. Nhưng về lâu dài, thủ tục thanh lý tài sản của chi nhánh Evergrande tại Hồng Kông kéo dài bao lâu ? Có nhiều quan điểm khác nhau. Phần lớn đều cho rằng hồ sơ này sẽ kéo dài nhiều tháng và sẽ rất phức tạp vì đừng quên rằng, Evergrande không chỉ hoạt động trong ngành bất động sản, mà còn hiện diện trong nhiều lĩnh vực khác nữa (như trong lĩnh vực cung cấp nước khoáng,sản xuất thực phẩm… bảo hiểm nhà ở … ). Trong mọi trường hợp những hệ quả kèm theo về vụ Evergrande sẽ rất lớn cả về chính trị lẫn kinh tế và xã hội.
Tác động về mặt xã hội khi mà hàng trăm ngàn căn hộ đang xây và bị bỏ dở, khi mà hàng trăm triệu căn hộ khác đã xây xong nhưng lại hoàn toàn bị bỏ trống, khi mà chủ nhân của những căn hộ đó – phần lớn là người cao tuổi mang tiền tiết kiệm ra để đầu tư, nhưng giờ đây lại mất hết tất cả : họ không được giao nhà và cũng không thể lấy lại vốn. Đầu tư, mùa nhà là cách để người dân Trung Quốc tiết kiệm cho tuổi về hưu ».
Từ tháng 10/2021 « 90 % trị giá chứng khoán của Evergrande đã bốc hơi ». Trong bài tham luận dành cho viện nghiên cứu Institut Montaigne (12/10/2021) chuyên gia về ngân hàng và đã có nhiều năm làm việc tại châu Á và Trung Quốc, Philippe Aguignier giảng dậy tại trường Khoa Học Chính Trị Sciences Po. và Viện Văn Hoa và Ngôn Ngữ Đông Phương đã xác định rõ danh sách những « nạn nhân » từ hiện tượng vỡ bong bóng địa ốc tại mà Evergrande là một trường hợp điển hình.
Philippe Aguignier lo ngại cho số phận của gần 70 ngàn nhân viên của đại tập đoàn này và kèm theo đó là của các đối tác cung cấp nguyên và nhiên liệu, dịch vụ cho Evergrande, bởi vì các chủ nợ của Evergrande, nếu là các ngân hàng hay các quỹ đầu tư, các hãng bảo hiểm thì đều ít nhiều được Nhà nước yểm trợ.
"Khả năng rất thấp để được bồi hoàn"
Câu hỏi lớn ở đây là liệu rằng hàng trăm triệu người đã đầu tư để mua nhà có hy vọng được hoàn lại vốn hay không ? Nhà họ đã mua có còn trị giá gì nữa hay không ? Pierre Antoine Donnet không mấy lạc quan :
Pierre Antoine Donnet : « Ở Trung Quốc có những cơ quan phụ trách thu thập, xử lý đơn kiện các doanh nghiệp theo hướng gọi là để bảo vệ người đầu tư. Nhưng hệ thống hành chính, tư pháp ở đây do chính quyền kiểm soát và cầm chắc là hàng triệu người mua nhà sẽ không bao giờ được hoàn trả lại vốn. Hệ quả kèm theo là công luận Trung Quốc lại càng mất niềm tin vào guồng máy chính trị ngay trên đất nước họ, càng mất lòng tin vào chính các doanh nghiệp của Trung Quốc. Tổng nợ của Evergrande và cũng là con số mà người ta được biết là 328 tỷ đô la ».
Bài học nào từ vụ Evergrande và khủng hoảng bất động sản Trung Quốc ? Cũng ông Donnet, nhà báo từng là thông tín viên thường trực tại Bắc Kinh của hãng thông tấn AFP phân tích :
Pierre Antoine Donnet : « Ở Trung Quốc bên cạnh hiện tượng người ta đã rất hồ hởi đầu tư, kèm theo đó là sự tự tin quá trớn. Có nghĩa là ở đây nhiều người tin rằng, Trung Quốc với một tỷ lệ tăng trưởng hơn 10 % một năm trong thời gian rất dài thì chuyện gì cũng có thể làm được. Phép lại kinh tế đó đã khiến người ta chóng mặt và nhất là trong lĩnh vực địa ốc … cho dù đây không là một trường hợp cá biệt. Trung Quốc đã có biết bao nhiêu dự án khổng lồ : nào là xa lộ rộng thênh thang, những sân bay càng lúc càng đồ sộ. Nhưng không ít những công trình đó hiện nay vô dụng. Thậm chí do quá cồng kềnh, chúng đã bị phá hủy … Trong những điều kiện đó, hình ảnh của Trung Quốc trong mắt công luận quốc tế đã xấu đi và giới đầu tư ngoại quốc bắt đầu hoài nghi về thực chất của sức mạnh kinh tế Trung Quốc. Số này đang tính đến những nước cờ tiếp theo. Họ tự hỏi Trung Quốc có còn là điểm an toàn xứng đáng để bỏ vốn vào đây kinh doanh nữa hay không. Chỉ riêng năm 2023 hàng ngàn nhà đầu tư nước ngoài đã rời khỏi Hoa Lục. Tại châu Á, thì Ấn Độ, Malaysia, Việt Nam và Singapore là những bãi đáp ».
Nhà đất, Bắc Kinh đi từ thái cực này đến thái cực khác
Về những nguyên nhân đã thổi lên quả bóng địa ốc tại Trung Quốc, chuyên gia về tài chính Philippe Aguignier nhắc lại : Bắc Kinh chủ tương khuyến khích đầu tư và tiết kiệm hơn là tiêu thụ. Đồng thời đối với tất cả người dân tại đây, mua nhà là cách duy nhất để dành tiền và kiếm lãi.
Vấn đề đặt ra là giờ đây Trung Quốc đứng trước một nghịch lý : nhu cầu cung cấp nhà ở cho hơn 1,5 tỷ dân vẫn tồn tại. Thanh niên không có phương tiện mua nhà, ra ở riêng mà vẫn phải sống chung với bố mẹ. Bên cạnh đó là hàng « triệu căn hộ đang bị bỏ trống ».Từ 15 năm nay các chuyên gia Trung Quốc đã kêu gọi chính quyền điều chỉnh lại hiện tượng bất cân đối đó. Do vậy, theo giới quan sát quyết định của ông Tập Cận Bình làm hạ nhiệt thị trường bất động sản tại Trung Quốc là cần thiết. Có điều, luật cung cầu và thể thức vận hành của một nền kinh tế không phải lúc nào « chiều theo ý muốn của lãnh đạo ».
Nhà Trung Quốc học, François Godement viện Institut Montaigne cho rằng trong trường hợp cụ thể của tập đoàn Evergrande, khi điều chỉnh lại thị trường nhà đất, Bắc Kinh đã « cân nhắc kỹ » những tác động về kinh tế và xã hội trước khi quyết định « để cho quả bóng địa ốc xì hơi ».
Thị trường nhà đất Trung Quốc « mất hết tự do »
Theo chuyên gia nước Pháp này trên thị trường bất động sản, Bắc Kinh đã chuyển từ « một thái cực này sang một thái cực khác » : Cho đến rất gần đây, Trung Quốc hầu như không đánh thuế nhà đất, nhưng rồi trong một sớm một chiều Nhà nước đã ban hành một loạt chỉ thị như là ấn định giá trần khi cho thuê nhà tại một số các thành phố lớn …
Những quyết định sắp tới có thể là « mầm mống báo trước chính sách kinh tế của Bắc Kinh trong tương lai
François Godement cho rằng sẽ khá thú vị chờ xem quyết định của Bắc Kinh về số phận Evergrande và nhất là sẽ bồi thường cho các nạn nhân của tập đoàn này như thế nào : chính phủ sẽ chú trọng hơn đến các nhà đầu tư nội địa, đến các đối tác tài chính ở hải ngoại hay đến những nhà đầu tư cò con ? Những quyết định sắp tới có thể là « mầm mống báo trước chính sách kinh tế của Bắc Kinh trong tương lai, theo hướng Trung Quốc giảm mức độ lệ thuộc vào lĩnh vực tài chính (…) hay vào một số lĩnh công nghệ thuật nơi mà các nhà đầu tư nước ngoài chiếm một vị trí quan trọng, để chú trọng hơn vào những vấn đề cơ bản thiết thực với xã hội ».
Hiệu quả của chính sách đó đến đâu, đấy lại là chuyện khác. Trước mắt cố vấn về Trung Quốc của viện nghiên cứu Institut Montaigne, Paris, nhà Trung Quốc học François Godement, thận trọng vì ông không chắc xoay trục chính sách kinh tế theo hướng đó sẽ cho phép « về lâu dài, bảo đảm tăng trưởng cho quốc gia này ».
Tue, 06 Feb 2024 - 157 - Trung Quốc đang tính toán những gì ở Miến Điện ?
« Bắt cá hai tay ». Trung Quốc đang tính toán những gì ở Miến Điện ? Đối thoại với tập đoàn quân sự và liên minh vũ trang chống quân đội là dấu hiệu cho thấy ảnh hưởng của Bắc Kinh với quốc gia Đông Nam Á này « có hạn », hay Trung Quốc đang lo rằng xung đột vũ trang tại Miến Điện « vuột tầm kiểm soát » như Emmanuel Véron chuyên gia về Trung Quốc đương đại, viện INALCO Paris, ghi nhận trong cuộc trả lời phỏng vấn dành cho RFI tiếng Việt ?
« Chiến dịch 1027 » liên minh vũ trang giữa ba sắc tộc thiểu số Miến Điện khởi động từ hôm 27/10/2023 đang làm đảo lộn những kế hoạch của Trung Quốc tại quốc gia Đông Nam Á này. Bắc Kinh vẫn là điểm tựa chính trị và quân sự của giới tướng lĩnh cầm quyền nhưng lại « tiếp tay » với phe nổi dậy chống lại Naypyidaw để cứu vãn quyền lợi kinh tế, dập tắt nguy cơ bất ổn tại đường biên giới phía nam, bảo đảm an toàn và kế sinh nhai cho hàng trăm ngàn công dân Trung Quốc tại các cửa khẩu.
Ngày 01/02/2024 đánh dấu tròn ba năm tập đoàn quân sự Miến Điện lật đổ chính quyền dân sự trong tay Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân Chủ do bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo. Ba năm sau cuộc đảo chính, giới tướng lĩnh ở thủ đô Naypyidaw chỉ còn kiểm soát từ « 40 đến 60 % lãnh thổ » như giám đốc nghiên cứu Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược IRIS của Pháp Eric Mottet ghi nhận.
Từ cuối tháng 10/2023, quân đội Miến Điện, với điểm tựa chính là Trung Quốc, đã bị liên minh vũ trang Three Brotherhood Alliance - TBA thách thức, mở nhiều mặt trận tấn công. Tập đoàn quân sự nhìn nhận « thất bại quân sự tại nhiều khu vực ở bang Shan » biên giới đông bắc, sát với Trung Quốc.
Hiệu quả của vai trò trung gian hòa giải
Về phía Bắc Kinh, do có đường biên giới chung hơn 2.000 km với Miến Điện, Trung Quốc đã ít nhất hai lần thông báo thuyết phục được Naypyidaw và các phe nổi dậy vũ trang ngừng giao tranh. Gần đây nhất là hôm 12/01/2024 sau ba vòng đàm phán tại Côn Minh tỉnh Vân Nam. Nhưng chưa đầy 24 giờ sau, MNDAA Liên Minh Dân Chủ Quốc Gia Miến Điện, một trong ba bên chủ chốt trong TBA xác nhận thỏa thuận Côn Minh « tan vỡ » khi quân đội dùng « vũ khí hạng nặng » tấn công một ngôi làng ở bang Shan.
Quân Đội Giải Phóng Quốc Gia Ta’ang TNLA chỉ trích Bắc Kinh chỉ « lo bảo vệ lợi ích của Trung Quốc » trong khu vực và thỏa thuận ngừng bắn là thủ thuật « câu giờ có lợi cho bên quân đội chính quy đang thất thế ».
Một nguồn tin khác trích dẫn thông cáo của TBA nhắc lại mục tiêu của liên minh vũ trang này là giành lại quyền lực từ tay giới tướng lĩnh.
Trung tuần tháng 12/2023, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Mao Ninh cũng đã rất tự hào khoe thành tích « nỗ lực hòa giải » của Bắc Kinh. Các vòng đàm phán sau đó ở Côn Minh đã phủ nhận thành công của Trung Quốc.
Quyền lợi kinh tế và mối lo bất ổn ở biên giới
Theo tất cả các nhà quan sát, những hoạt động ngoại giao dồn dập đó của Trung Quốc là nhằm « bảo vệ » ổn định tại một vùng ngay sát cạnh, bảo đảm an ninh cho hàng trăm ngàn công dân Trung Quốc tại các cửa khẩu và nhất là bảo vệ những lợi ích kinh tế, thương mại của Trung Quốc tại quốc gia Đông Nam Á này. Do xung đột vũ trang tại Miến Điện từ cuối tháng 10/2023, thiệt hại về kinh tế và thương mại song phương đã « lên tới 10 triệu đô la ».
Tháng 02/2021, khi tập đoàn quân sự Miến Điện lật đổ chính quyền dân sự, từ Nhật Bản đến Úc hay Âu Mỹ đã ban hành lệnh trừng phạt Naypyidaw. Miến Điện cũng đã bị các đối tác trong ASEAN xa lánh. Riêng Bắc Kinh đã đầu tư thêm 113 triệu đô la vào Miến Điện trong cùng năm. Trung Quốc là nguồn bảo đảm đến 25 % tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Miến Điện.
Nhân danh nguyên tắc « không can thiệp vào công việc nội bộ » của bất kỳ một quốc gia nào, Trung Quốc kiên nhẫn duy trì quan hệ với nước láng giềng sát cạnh và « tiếp tục thúc đẩy các dự án trong khuôn khổ Con Đường Tơ Lụa mới », đặc biệt là dự án đầu tư vào cảng nước sâu Kyaukphy, cửa ngõ hướng ra Ấn Độ Dương.
Nhưng trên thực tế bất ổn kéo dài tại Miến Điện càng lúc càng khiến Bắc Kinh bực mình, nhất là khi họ nhận thấy « tập đoàn quân sự Miến Điện không là những đối tác đáng tin cậy cho Trung Quốc thực hiện những mục tiêu chiến lược mà họ đã đề ra », như Jason Tower, một chuyên gia Mỹ về Miến Điện tại Bangkok ghi nhận.
Trả lời RFI tiếng Việt, giáo sư Emmanuel Veron, chuyên gia về Trung Quốc đương đại, Viện Ngôn Ngữ và Văn Minh Phương Đông - INALCO Paris nhấn mạnh đến « mật độ » trong bang giao giữa Bắc Kinh với Miến Điện từ rất lâu nay không chỉ về khía cạnh kinh tế hay thương mại mà thôi :
Emmanuel Véron : « Quan hệ giữa Trung Quốc với Miến Điện đặc biệt quan trọng và chặt chẽ đến nỗi đôi khi giới quan sát cho rằng Miến Điện là một nước thuộc quỹ đạo của Bắc Kinh, là một chư hầu của Trung Quốc. Trung Quốc luôn chú trọng đến mối quan hệ rất cô đọng này, trước đây là với tập đoàn quân sự và hiện nay, do những bất ổn nội bộ tại quốc gia Đông Nam Á này, Bắc Kinh có khuynh hướng kết nối luôn cả với lại các lực lượng vũ trang kình địch với giới tướng lãnh cầm quyền. (...) Từng bước Trung Quốc thiên về các lực lượng chính trị và quân sự đang nổi lên tại Miến Điện. Thay đổi này xuất phát từ nhiều yếu tố mà trước hết là những chuyển biến trong nội bộ Miến Điện. Đừng quên rằng đây là một quốc gia đang trong trạng thái rất sôi động cả về chính trị lẫn về phương diện quân sự.
Kế tới là những chuyển động từ bên ngoài. Tôi xin giải thích : Bản thân Trung Quốc cũng đang trải qua một số những biến động và một số hồ sơ đang vượt khỏi tầm tay. Bắc Kinh đang mất dần một số những điểm tựa. Đừng quên rằng, Miến Điện chịu ảnh hưởng cả của Trung Quốc lẫn Ấn Độ và do vậy, đây là sân chơi để hai nước lớn này của châu Á gián tiếp đọ sức với nhau. Cũng phải nói rằng, liên quan đến những bất ổn hiện nay ở Miến Điện, cũng đã có một sự can thiệp kín đáo của New Delhi. Đối với Trung Quốc đây là một vấn đề quá nhạy cảm để có thể bỏ rơi Miến Điện và điều đó giải thích cho thái độ "bắt cá hai tay" của Bắc Kinh, quay sang ủng hộ những thế lực quân sự đang nổi lên ».
Cảng nước sâu Miến Điện, lộ trình thay thế cho eo biển Malacca
Trong dự án Một Vành Đai Một Con Đường được ông Tập Cận Bình khởi xướng từ 2013 Miến Điện là một « mắt xích » quan trọng và hơn thế nữa bang Shan ở khu vực đông bắc Miến Điện, sát biên giới với Trung Quốc là « nút thắt » chính, là điểm khởi đầu trong tham vọng mở một hành lang kinh tế CMEC đi thẳng ra cảng nước sâu Kyaukphy.
Kyaukphy – Mandalay – Muse bang Shan sẽ là trục chính để đưa dầu, khí đốt Trung Quốc nhập của Nga hay Trung Đông vào tận Côn Minh, tỉnh Vân Nam và là một « lộ trình thay thế » cho con đường giao thương hàng hải phải đi qua eo biển Malacca.
Có điều từ khi liên minh ba sắc tộc thiểu số vũ trang Miến Điện TBA khởi động Chiến dịch 1027, giao tranh bùng lên ở nhiều nơi, thất thu về thương mại ở khu vực giám ranh biên giới Miến Điện -Trung Quốc đã lên tới cả chục triêu đô la. Thêm vào đó dự án xây dựng đường ống dẫn dầu đi từ cảng Kyaukphy đến bang Shan đã « nhiều lần là mục tiêu tấn công » của các phe nổi dậy.
Bang Shan là cửa ngõ « 40 % xuất nhập khẩu song phương » phải đi qua. Theo các nhà quan sát, đó chính là lý do vì sao cuối tháng 11/2023 Trung Quốc đã mở một cuộc tập trận quy mô gần biên giới Miến Điện. Theo quan điểm của giáo sư Véron, tất cả các động thái cả về ngoại giao, quân sự của Trung Quốc trong vùng đều cho thấy Bắc Kinh đang lo hồ sơ Miến Điện vượt ngoài tầm kiểm soát.
Emmanuel Véron : « Miến Điện ngay sát cạnh Trung Quốc, hai nước có đường biên giới chung. Vì lý do an ninh, Bắc Kinh cần bảo đảm khu vực ở biên giới phía nam này phải được ổn định. Ngoài ra từ rất lâu nay Trung Quốc đã mở rộng giao thương với quốc gia Đông Nam Á này, xem Miến Điện là một mắt xích quan trọng trong các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở, như các hệ thống đường ống dẫn dầu …
Trung Quốc đã bắt rễ sâu vào Miến Điện từ lâu nay với nhiều dự án lớn. Thành thử Bắc Kinh không thể để mất những khoản đầu tư đó. Tôi cho rằng qua việc đối thoại với các nhóm vũ trang Miến Điện, Trung Quốc đang lo mất ảnh hưởng tại quốc gia Đông Nam Á này và đây cũng chính là dấu hiệu Trung Quốc đang gặp khó khăn trước thực tế tại Miến Điện hiện nay ».
Vậy câu hỏi đặt ra là Trung Quốc có những lá chủ bài nào để thuyết phục cả bên quân đội Miến Điện lẫn phe nổi dậy vãn hồi hòa bình và trật tự trong vùng biên giới ?
Emmanuel Véron : « Nhìn lại giai đoạn trong thời gian gần đây, một trong những lá chủ bài của Trung Quốc để nói chuyện với Miến Điện luôn là tiền. Đó có thể là tiền để mua chuộc các quan chức, tiền chi ra cho các băng đảng mafia, cho các tổ chức tội phạm hoạt động ở vùng biên giới để khoanh vùng các hoạt động phi pháp trên lãnh thổ Miến Điện, tránh để chúng tràn quan biên giới Trung Quốc. Nói cách khác Trung Quốc dùng tiền đổi lấy an ninh. Nhưng tôi xin nhắc lại là chủ trương được áp dụng từ trước đến nay dường như đang sụp đổ cho nên Bắc Kinh chọn giải pháp đối thoại với các bên bởi vì tình hình ở khu vực biên giới với Miến Điện có khả năng vuột khỏi tầm kiềm soát ».
Chuyên gia về Trung Quốc đương đại của Viện Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương Emmanuel Véron lưu ý chính sách ngoại giao của Bắc Kinh rất uyển chuyển và thực tiễn. Quan điểm của Trung Quốc « sẽ còn theo đổi tùy theo chuyển biến về tương quan lực lượng »giữa bên quân đội với các nhóm sắc tộc thiểu số vũ trang Miến Điện.
Một số các nhà quan sát khác nhắc lại « tính thực dụng và mập mờ » trong quan hệ giữa Bắc Kinh với các nhóm nổi dậy ở Miến Điện. Hơn nữa kịch bản mà ông Tập Cận Bình tuyệt đối không muốn xảy ra là phương Tây can thiệp hay nhòm ngó vào Miến Điện.
Một người thuộc phe chống đối tập đoàn quân sự Naypyidaw được báo Pháp Le Figaro trích dẫn thậm chí cho rằng « giờ đây Trung Quốc ủng hộ chúng tôi còn hơn cả phương Tây ». Nhưng nói như vậy không có nghĩa là Bắc Kinh bắt đầu « bỏ rơi » giới tướng lĩnh cầm quyền.
Những lá chủ bài của phe nổi dậy
Song các thiểu số sắc tộc Miến Điện và nhất là liên minh TBA cũng có không ít là bài trong tay để mặc cả với Bắc Kinh. Trong một bài báo gần đây, thông tín viên báo Le Monde tại Đông Nam Á, Brice Pedroletti nhắc lại lực lượng MNDAA - Liên Minh Dân Chủ Quốc Gia Miến Điện, một trong ba liên minh Huynh Đệ vũ trang, trong quá khứ và hiện tại vẫn còn chịu ảnh hưởng rất lớn của Trung Quốc, qua những liên hệ chặt chẽ với các cộng đồng gốc Hoa sinh sống tại Miến Điện từ nhiều thế kỷ qua.
Một số tài liệu khác cho thấy điểm mạnh của các nhóm nổi dậy Miến Điện là quan hệ cả với bên quân đội Trung Quốc lẫn các băng đảng tội phạm gốc người Hoa. Cùng lúc thì Bắc Kinh ý thức được rằng biên giới Miến-Trung là một vùng rừng núi hiểm trở, là đất dụng võ của các băng đảng tội phạm, là nơi mà các đường dây ma túy, buôn người, các tổ chức lừa đảo trên mạng không bị luật lệ của Bắc Kinh hay Naypyidaw trói buộc.
Tue, 30 Jan 2024 - 156 - Thương mại toàn cầu trước thách thức trên biển
Chuyện gì xảy ra nếu như các « cửa biển » lần lượt bị khép lại ? Kênh đào Panama đã bị tê liệt vì thiếu nước. Bất ổn địa chính trị ở Cận Đông, lực lượng Houthi của Yemen đang đe dọa Hồng Hải, cửa ngõ của 40 % giao thương giữa hai châu lục Á –Âu. Những giới hạn về kỹ thuật và tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông là những mối nguy hiểm tiềm tàng ở khu vực eo biển Malacca và eo biển Đài Loan.
« An ninh », « an ninh hàng hải » và « tự do lưu thông trên biển » mang tính thời sự hơn bao giờ hết. Trong một thế giới « toàn cầu » mà 90 % thương mại quốc tế tùy thuộc vào vận tải đường biển, hiển nhiên là tại diễn đàn kinh tế thế giới Davos, Thụy Sĩ, tuần trước, các nguyên thủ quốc gia, các lãnh đạo những tập đoàn lớn trên thế giới đều bận tâm vì tình hình ở Hồng Hải.
Kịch bản dây chuyền sản xuất lại đứt gẫy
Lãnh đạo ngân hàng Anh Barclays tại diễn đàn kinh tế Davos bi quan cho rằng sau khủng hoảng dịch Covid-19 và chính sách phong tỏa nghiêm ngặt của Bắc Kinh, nhiều người đã tưởng rằng chuỗi cung ứng toàn cầu giờ đây sẽ hoạt động « bình thường trở lại ». Thời sự ở Hồng Hải như chưa cho phép chứng minh điều đó.
Tổ Chức Thương Mại Thế Giới đang kỳ vọng giao thương toàn cầu phục hồi trong năm 2024, nhưng WTO đã đột ngột giảm dự phóng vì « căng thẳng về địa chính trị nghiêm trọng hơn, những rối loạn ở Hồng Hải ảnh hưởng đến kênh đào Suez và những xáo trộn ở kênh đào Panama vì biến đổi khí hậu ».
Kinh tế gia Karen Harris, thuộc cơ quan tư vấn Bain&Co, trụ sở tại Boston Hoa Kỳ, được AFP trích dẫn, khẳng định rõ trách nhiệm của lực lượng nổi dậy Yemen : Tấn công vào các tàu chở hàng, Houthi đang « làm thay đổi cục diện thương mại quốc tế và làm tăng thêm phí tổn vận tải đường biển ».
Tổng giám đốc Maersk, một trong 5 tập đoàn vận tải đường biển hàng đầu của thế giới, nhìn nhận « chuỗi cung ứng toàn cầu bị xáo trộn ít nhất là trong nhiều tháng ». Một số nhà máy của hai hãng xe Tesla và Volvo tại châu Âu đã phải cho nhân viên tạm nghỉ việc vì thiếu phụ tùng. Qatar cảnh báo các dịch vụ cung cấp khí hóa lỏng « sẽ bị vạ lây ».
Trả lời đài RFI Pháp ngữ, chuyên gia về quan hệ quốc tế Emmanuel Véron, giảng dậy tại Viện Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương INALCO và Trường Hải Quân trước hết nhấn mạnh đến vị trí địa chiến lược của Hồng Hải trên bàn cờ thương mại quốc tế :
« Đây là một trong những nhánh chính của giao thông hàng hải quốc tế, nối liền Á-Âu, nghĩa là có đến hàng ngàn, hàng chục ngàn tàu chở hàng, tàu chở dầu phải đi qua Hồng Hải, qua kênh đào Suez trong các hoạt động giao thương giữa châu Á với châu Âu và Trung Đông. Hồng Hải là cửa ngõ nối liền Ấn Độ Dương với Địa Trung Hải thông qua con kênh đào Suez trên lãnh thổ Ai Cập, mang tính thiết yếu đối với thị trường năng lượng, và nguyên liệu. Đây cũng làmột trong những tuyến huyết mạch trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay và là một trục chiến lược trên bàn cờ thương mại quốc tế ».
Tuyến đường huyết mạch
Vì bất ổn ở Hồng Hải, tập đoàn dầu khí BP hôm 18/12/2023 « ngừng » các chuyến tàu đi qua khu vực « nóng » này. Bốn trong số 5 tập đoàn vận chuyển đường biển lớn nhất thế giới cũng đưa ra quyết định tương tự.
Theo các giới chức trong ngành, trong vài tuần lễ số tàu thuyền đi qua kênh đào Suez của Ai Cập giảm 42 %, trong lúc các chuyến tàu chở hàng từ Âu sang Á mất thêm « từ 8 đến 15 ngày ». Giáo sư Véron phân tích tiếp :
« Phải đánh đường vòng đi qua châu Phi, qua Mũi Hảo Vọng, mỏm cực nam của Nam Phi để đưa hàng hóa từ châu Á sang châu Âu gây tổn thất cho các công ty vận chuyển. Trước mắt chưa thể thẩm định chính xác về các khoản thất thu đó, bởi vì bất ổn trong khu vực sẽ còn kéo dài. Tuy nhiên, theo các số liệu đáng tin cậy, trong giai đoạn cuối 2023 và trong những tuần lễ đầu năm nay, thiệt hại đã lên tới hàng ngàn tỷ đô la và còn hơn thế nữa ».
Chính trong bối cảnh đó lại dấy lên lo ngại chuỗi cung ứng và sản xuất bị gián đoạn. Giáo sư Véron :
« Một mặt chúng ta sẽ bị thiếu hay sẽ khó tiếp cận một số mặt hàng, thí dụ như là phụ tùng xe hơi như trong thời kỳ thế giới bị phong tỏa để chống dịch Covid-19. Một số chuỗi cung ứng sẽ bị chựng lại hoặc bị gián đoạn. Mặt khác, sẽ phải mất nhiều ngày hơn để hàng được chuyển đến các nhà máy. Các chi phí vận chuyển sẽ tốn kém hơn … Ba tác động nói trên cộng lại ảnh hưởng đến hoạt động tại các cơ sở sản xuất ở châu Âu và hệ quả kèm theo là trong những tuần và những tháng tới, châu Âu có chiều hướng bị lạm phát ».
Trung Quốc trong thế « trên đe dưới búa »
Phát biểu tại diễn đàn kinh tế Davos, thủ tướng Lý Cường khoe thành tích tăng trưởng vượt ngưỡng 5 % trong năm 2023, nhưng không hẳn ông thực sự an tâm khi biết rằng nếu giao tranh ở Hồng Hải kéo dài, Trung Quốc là một trong những nạn nhân đầu tiên phải trả giá đắt.
Bắc Kinh lo rằng xăng dầu của Trung Đông chậm được chuyển đến các nhà máy ở Hoa Lục. Trong chiều ngược lại, xung đột tại một khu vực là cửa ngõ nối liền Ấn Độ Dương với Địa Trung Hải khiến hàng sản xuất của Trung Quốc khó tiếp cận các thị trường từ Trung Đông đến châu Phi và nhất là châu Âu.
Sau hơn ba năm đóng cửa chống dịch, khủng hoảng ở khu vực Hồng Hải lần này là « giọt nước làm tràn ly » hay đúng hơn là làm tràn các nhà kho của Trung Quốc và đẩy các công ty xuất khẩu vào thế « tuyệt vọng ». Trong mắt ông Marco Castelli, sáng lập viên IC Trade chuyên xuất khẩu phụ tùng sản xuất từ các nhà máy ở Hoa Lục sang châu Âu, đây là một cú phạt kép. Trả lời thông tín viên RFI Stéphane Lagarde tại Bắc Kinh lãnh đạo IC Trade cho biết :
« Tác động đầu tiên là thời hạn chuyển hàng bị kéo dài, mất thêm từ 20 đến 25 ngày so với bình thường. Đây làmột vấn đề về mặt tài chính và liên quan luôn cả đến việc quản lý các kho hàng cả từ phía các khách hàng lẫn các nhà cung cấp của chúng tôi. Hệ quả thứ nhì là giá cả vận chuyển bị đẩy lên cao ».
Trung Quốc sợ mất khách
Một thí dụ cụ thể là trong vài tuần, chi phí chở hàng từ Trung Quốc sang Pháp đã tăng gấp ba và thậm chí là gấp bốn, chỉ vì phải tránh né Hồng Hải và không thể đi qua kênh đào Suez. Một mối nguy hiểm khác là các nhà xuất khẩu Trung Quốc đang bị mất khách như một chủ doanh nghiệp ở Nghĩa Ô, tỉnh Chiết Giang so sánh :
« Tình hình khả quan hơn so với thời kỳ chúng tôi phải đối mặt với virus gây đại dịch Covid. Buôn bán thì có lúc trồi lúc sụt và chúng tôi cố gắng giải thích với các khách hàng ở châu Âu và châu Phi điều đó. Hy vọng là tình trạng này không kéo dài. Hiện thời khâu vận chuyển quá đắt. Trước đây một contener gửi sang pháp là 2.000 euro, bây giờ là 6.000 euro. Một số khách hàng của chúng tôi vẫn còn hàng trong kho nên họ cố gắng đợi sau dịp nghỉ Tết nguyên đán mới đặt mua thêm hàng. Người ta hy vọng tình hình lắng xuống, giá cả phải chăng hơn một chút. Một khách hàng của chúng tôi ở Maroc nói là họ vẫn còn hàng và sẽ đợi sau Tết mới đặt mua thêm. Tuy nhiên, những ai đang cần thì bắt buộc phải chịu những phí tổn nặng hơn. Họ cần hàng để bán. Cuối cùng thì người tiêu dùng sẽ phải trả giá đắt hơn ».
Hai đầu máy tăng trưởng cùng bị hỏng ?
Điểm khiến chính quyền Bắc Kinh lo ngại hơn cả là vào lúc kinh tế nội địa đang chựng lại, người dân « biếng nhác tiêu xài » và Trung Quốc vẫn phải trông cậy vào xuất khẩu, bất ổn ở Hồng Hải đẩy cơ xưởng sản xuất của thế giới này vào cảnh « trên de dưới búa ». Tiêu thụ nội địa và xuất khẩu mà cùng chựng lại thì hệ quả kèm theo là thất nghiệp gia tăng vào lúc mà, như hãng tin Anh Reuters ghi nhận, đối với một số nhà máy Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu sang Châu Âu và châu Phi chiếm đến 40 % doanh thu.
Khả năng can thiệp của Iran ?
Chính vì yếu tố an ninh và căng thẳng địa chính trị đe dọa đến ổn định và thịnh vượng chung toàn cầu hơn bao giờ hết, cho nên câu hỏi đặt ra là liệu Bắc Kinh có thể khai thác ảnh hưởng của mình với đối tác Iran để thuyết phục Teheran, điểm tựa quân sự cho lực lượng Hồi Giáo theo hệ phái Shia ở Yemen, ngừng khuấy động tình hình ở Hồng Hải hay không. Chuyên gia về Trung Đông David Rigoulet - Roze, Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược Pháp IRIS, thận trọng cho rằng, ngay cả tiếng nói của Iran với phiến quân Houthi cũng chỉ có hạn :
« Chúng ta có thể nghĩ rằng Trung Quốc sẽ yêu cầu Iran can thiệp kềm hãm lực lượng Houthi trong các hoạt động ở Hồng Hải, bởi phe Hồi Giáo Yemen này là công cụ của Teheran. Sự thực không hoàn toàn là như vậy. Phe Houthi có một số lợi ích về địa chính trị phù hợp với của Iran, tham gia ‘trục kháng chiến’ chống lại Nhà Nước Do Thái, nhưng không nhất thiết là hoàn toàn do Teheran điều khiển. Quân Houthi có những tính toán riêng của họ. Thí dụ như đại diện của phe nổi dậy Yemen này tuyên bố bảo vệ tàu thuyền của Nga và Trung Quốc, nhưng giao thương hàng hải và chuỗi cung ứng toàn cầu đâu chỉ thu hẹp trên những chuyến tàu chở hàng của Nga hay Trung Quốc. Bắc Kinh hoàn toàn ý thức được điều đó và không muốn hàng hóa của Trung Quốc gặp trở ngại trên đường vận chuyển sang châu Âu. Châu lục này là một trong những thị trường chủ chốt của Trung Quốc. Thành thử vấn đề ở đây liên quan đến toàn cầu và xung đột ở Hồng Hải có chiều hướng trở thành một cuộc xung đột ‘toàn cầu hóa’».
Kênh đào Panama và Biển Đông
Ngoài vấn đề an ninh ở Hồng Hải gây nhiều thiệt hại cho các công ty vận chuyển, làm rối loạn phía phía « cung » lẫn phía « cầu », mãi tận châu Mỹ, từ 2023 hạn hán làm kiệt quệ kênh đào Panama cũng là một mối lo âu lớn. Song như ông Paul Tourret, Viện Cao Đẳng Kinh tế Biển ISEM của Pháp, lưu ý : Kênh Panama bị cạn nước ảnh hưởng nhiều đến các nền kinh tế trong khu vực như Peru, Ecuador hay Chilê. Con kênh nối liền Ấn Độ Dương với biển Caribê này là nơi mà 2 hay 3 % mậu dịch quốc tế phải đi qua.
Châu Á mới là điểm nóng tiềm tàng. Chính xác hơn là ở hai eo biển Malacca và Đài Loan. Malacca là ngã tư giữa Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, biển Andaman và Biển Đông. Đây là nơi mỗi năm có chừng 90.000 tàu thuyền qua lại trong hai chiều. Ông Tourret nhấn mạnh : « Những tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông và xa hơn một chút là căng thẳng tại eo biển Đài Loan là những mối đe dọa tiềm tàng ».
Về eo biển Malacca nhà nghiên cứu Paul Tourret, Viện ISEMAR của Pháp, chú ý nhiều đến những yếu tố « kỹ thuật ».Ông giải thích « có những khúc tuyến đường hàng hải trải dài 900 km này chỉ rộng chừng từ 3 đến 5 cây số, với độ sâu chỉ chừng 25 mét. Ở đây tàu bè san sát, mỗi một tàu chở hàng chỉ cách nhau có chừng 500 thước (…) Nếu giao thương hàng hải trong vùng biển này tăng thêm và vượt ngưỡng 100.000 tàu/năm thì e rằng tai nạn thể nào cũng sẽ xảy ra ».
Liên quan đến eo biển Đài Loan, giới trong ngành biết rằng hai siêu cường kinh tế thế giới là Mỹ và Trung Quốc cùng thận trọng không dám chận cửa biển này. Song cũng không một ai dám cam đoan rằng vùng biển này sẽ luôn được bình yên.
Tue, 23 Jan 2024 - 155 - Trung Quốc « cần » Đài Loan để phát triển công nghệ cao ?
Báo chí nói nhiều đến sự phụ thuộc của các doanh nghiệp Trung Quốc vào công nghệ bán dẫn Đài Loan, mạch sống của kinh tế thế giới thế kỷ 21, mà ít nhắc tới một sự lệ thuộc « còn lớn hơn nữa » về thương mại, đầu tư của hòn đảo này vào Hoa Lục. Evelyne Banh, cơ quan tư vấn BSI Economics, phân tích về một mối liên hệ « bất tương xứng » giữa hai bờ eo biển Đài Loan.
Đã biết chắc ai sẽ thay thế tổng thống Thái Anh Văn lãnh đạo Đài Loan, nhưng tranh luận vẫn chưa dứt về tương lai khu vực dưới chính quyền Lại Thanh Đức. Câu hỏi vẫn là : Đảng Dân Tiến trong nhiệm kỳ bốn năm sắp tới liệu có đẩy hòn đảo nhỏ này đến gần chiến tranh hơn hay không ?
Một trong những yếu tố cho phép tạm gác sang một bên kịch bản chiến tranh là do Đài Loan và Trung Quốc đã gắn kết quá chặt chẽ với nhau về kinh tế, thương mại và đầu tư.
Theo các số liệu của bộ Thương Mại Đài Loan, đối tác thương mại quan trọng nhất của hòn đảo này là Hoa Lục và Hồng Kông. Năm 2023, xuất khẩu sang hai khu vực này chiếm hơn 35 % trong cán cân thương mại Đài Loan, tương đương với hơn 152 tỷ đô la. Hồng Kông và Trung Quốc cộng lại « nặng gấp đôi so với Hoa Kỳ » (76 tỷ đô la).
Trả lời phỏng vấn RFI tiếng Việt, bà Evelyne Banh thuộc cơ quan tư vấn BSI Economics, trụ sở tại Paris, nhấn mạnh đến sự bất cân đối trong quan hệ kinh tế và thương mại giữa một ông khổng lồ thế giới và một hòn đảo tí hon nhưng lại đang nắm giữ nhiều chìa khóa quyết định :
Evelyne Banh :« Xuất khẩu của Trung Quốc sang Đài Loan hiện tại tương đương với khoảng 2 % tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này. Trong chiều ngược lại thì gần 20 % xuất khẩu của Đài Loan hướng về Hoa Lục. Như vậy có nghĩa là hơn 16 % GDP của Đài Loan tùy thuộc vào giao thương với Trung Quốc. Đó là một sự bất cân đối rất lớn đã nhiều lần bị Bắc Kinh khai thác để gây sức ép với Đài Loan. Chẳng hạn như trước ngày cựu chủ tịch Hạ Viện Mỹ bà Nancy Pelosi viếng thăm Đài Bắc hồi tháng 8/2022, hơn 2000 mặt hàng của Đài Loan đã bị trừng phạt. Hay là từ 2016, khi Đảng Dân Tiến lên cầm quyền, số du khách từ Hoa Lục đến Đài Loan cũng đã giảm mạnh. Hiện tại du khách Trung Quốc chỉ còn chiếm khoảng 3 % thay vì 15 % lượng du khách ngoại quốc vào Đài Loan như 8 năm trước đây.
Về đầu tư, Đài Loan tiếp tục đầu tư vào Hoa Lục, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ, mặc dù chính quyền Bắc Kinh đã liên tục thắt chặt thêm các biện pháp kiểm soát các doanh nghiệp ngoại quốc và ban hành những quy định chặt chẽ hơn về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trung Quốc vẫn là nơi thu hút hơn 50 % tổng đầu tư ở hải ngoại của Đài Loan. Trái lại, Đài Loan đón nhận chưa đầy 1 % FDI của các tập đoàn Trung Quốc. Đành rằng có dấu hiệu ‘bão hòa’ trên thị trường ở Hoa Lục và các doanh nhân Đài Loan vẫn gặp khó khăn trong kế hoạch chuyển hướng sang Đông Nam Á. Thí dụ như năm 2022 Singapore chỉ thu hút 5 % FDI của Đài Loan, Việt Nam là 3 %. Do vậy thách thức đối với chính quyền ở Đài Bắc là phải tăng tốc tiến trình đa dạng hóa các hoạt động kinh tế của hòn đảo ».
Thoát bóng Bắc Kinh, nhiệm vụ khó hoàn thành
Căng thẳng địa chính trị giữa hai bờ eo biển Đài Loan, mối quan hệ mật thiết hơn giữa Đài Bắc và Washington cả về quân sự lẫn kinh tế khiến thương mại và đầu tư của Đài Loan vào Hoa Lục liên tục giảm trong những năm gần đây. Xuất khẩu sang Trung Quốc năm ngoái giảm 18 % so với hồi 2022 dù vẫn cao gấp đôi so với xuất khẩu vào Mỹ.
Liên Hiệp Châu Âu trong bối cảnh tăng tốc chiến lược tự chủ về công nghệ đang ve vãn các nhà sản xuất linh kiện bán dẫn của Đài Loan hơn bao giờ hết, nhưng vẫn chỉ là « một chú lùn » bên cạnh hai đối tác thương mại lớn của Đài Bắc là Trung Quốc và Mỹ. Về đầu tư, như Evelyne Banh vừa giải thích, doanh nghiệp Đài Loan đã tìm cách « đa dạng hóa các điểm đến », cho dù trọng lượng của các nước Đông Nam Á, như Singapore và Việt Nam, vẫn còn rất khiêm tốn.
Về đầu tư, nếu như Foxconn, đang hoạt động tại nhiều thành phố ở Hoa Lục, là một biểu tượng lớn trong lĩnh vực công nghiệp song phương, thì nhiều doanh nghiệp Đài Loan bắt đầu « thu hẹp hoạt động » hay « rời khỏi » Trung Quốc, một phần vì áp lực chính trị, nhưng chủ yếu do kinh tế Trung Quốc gặp khó khăn.
Theo báo tài chính Nhật Bản Nikkei Asia, tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Đài Loan vào Hoa Lục đã giảm 34 % trong 11 tháng đầu năm 2023. Trung Quốc không còn là điểm đến lý tưởng và đã bị đẩy xuống hạng 3 sau Mỹ và Đức : 37 % FDI của Đài Loan hướng về Hoa Kỳ, 15 % nhắm vào Đức và chỉ có 12 % tiếp tục đổ về Trung Quốc.
Thống kê nói trên trái ngược hẳn với thời kỳ hoàng kim " từ giữa thập niên 1990 khi Đài Bắc và Bắc Kinh cùng xem kinh tế là một ưu tiên trong quan hệ song phương (…) và vào năm 2010, ở đỉnh điểm đã có khoảng 800.000 doanh nhân Đài Loan hoạt động ở Hoa Lục". Đó cũng là thời điểm Trung Quốc chiếm 80 % tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Đài Loan.
Trung Quốc dùng đòn kinh tế uy hiếp đối phương
Sự « tuột dốc » nói trên, theo Evelyne Banh, bắt đầu từ khi Đảng Dân Tiến lên cầm quyền năm 2016 và tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn chủ trương giảm bớt mức độ lệ thuộc vào một đối tác kinh tế, thương mại quá lớn là Trung Quốc. Đài Bắc thấy rõ là Bắc Kinh khai thác lá bài kinh tế để phục vụ những mục tiêu chính trị.
Thí dụ gần đây nhất là bốn ngày trước bầu cử tổng thống Đài Loan, hôm 09/01/2023, Bắc Kinh loan báo « mở điều tra » và dọa tăng thuế nhập khẩu đối với nhiều sản phẩm của Đài Loan bán sang Hoa Lục. Biện pháp này nhằm đáp trả việc Đài Bắc hạn chế nhập khẩu hơn 2500 mặt hàng « made in China » vào thị trường tí hon với 24 triệu dân này.
Vấn đề đặt ra là thông báo bên bộ Thương Mại Trung Quốc được đưa ra trước bầu cử tổng thống Đài Loan và khi đó ứng viên Đảng Dân Tiến có lập trường « cứng rắn với Bắc Kinh » đang dẫn đầu các cuộc thăm dò ý định bỏ phiếu.
Mùa thu năm ngoái, sáng lập viên tập đoàn Foxconn Terry Gou đã đột ngột từ bỏ ý định ra tranh cử tổng thống Đài Loan. Nhiều nhà quan sát gắn liền quyết định này với vụ Bắc Kinh mở điều tra vì nghi ngờ Foxconn « trốn thuế ». Nhiều nhà quan sát cho rằng Trung Quốc đã tìm cách ngăn cản ông Gou ra tranh cử vì sợ rằng ứng viên này « cướp » chổ của ứng cử viên Quốc Dân Đảng có lập trường hữu hảo hơn với Hoa Lục.
Kết quả bầu cử hôm 13/01/2024 minh chứng cho phân tích của của một giáo sư tại Đại Học Đài Loan, được tuần báo Courrier International trích dẫn : « Những áp lực càng trực tiếp và thô bạo của Trung Quốc càng có nguy cơ khiến công luận Đài Loan bất bình ».
Thế nhưng làm thế nào để thoát khỏi cái bóng quá lớn của Bắc Kinh ? Evelyne Banh, cơ quan tư vấn BSI Economics, trả lời :
Evelyne Banh : « Ưu tiên của tổng thống tân cử là đa dạng hóa các hoạt động kinh tế của hòn đảo, giảm bớt lệ thuộc vào Trung Quốc. Thực ra ông Lai Thanh Đức sẽ tiếp tục đi theo đường lối của người tiền nhiệm là tổng thống Thái Anh Văn nhằm giúp Đài Loan bớt bị áp lực, đồng thời củng cố liên hệ về kinh tế của hòn đảo này với các nền dân chủ lớn khác trên thế giới và với các nước lân cận. Chính quyền sắp tới sẽ nỗ lực vận động để gia nhập hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương, tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực, từ Úc đến Nhật Bản, Việt Nam hay Singapore. Từ 2016, Đài Loan cũng đặc biệt chú ý đến mối quan hệ với các nước đang phát triển, nhất là trong các lĩnh vực thương mại, kỹ thuật nông nghiệp, với từ ASEAN đến Úc và New Zealand ».
Chiến tranh thiêu rụi 10 % GDP toàn cầu
Trong phát biểu đầu tiên hôm 13/01/2024, tổng thống tân cử Đài Loan Lại Thanh Đức cam kết nỗ lực « phát triển và đẩy mạnh quan hệ và hợp tác kinh tế, thương mại » với Trung Quốc. Điều đó không cấm cản Bắc Kinh tiếp tục khẳng định lập trường « vững như bàn thạch và quyết tâm thống nhất » đất nước, đưa Đài Loan về với Hoa Lục. Nhiều nhà quan sát cho rằng thái độ hằn học của Trung Quốc với hòn đảo nhỏ ở bên kia eo biển Đài Loan xuất phát từ căng thẳng địa chính trị với phương Tây, mà chủ yếu là với Mỹ : Đài Loan là một lá chủ bài giúp Âu Mỹ bớt bị lệ vào kinh tế Trung Quốc, như ghi nhận của chuyên gia về Đài Loan Huai Shing Yen trên báo Le Monde (22/09/2023). Đó là điều mà Bắc Kinh muốn tránh bằng mọi giá.
Đài Loan, công cụ để Mỹ tách rời khỏi Trung Quốc
Chỉ là một hòn đảo nhỏ nhưng Đài Loan lại chiếm thế gần như độc quyền trong một lĩnh vực công nghệ được coi là « mạch sống » của kinh tế thế giới thế kỷ 21. Công nghệ bán dẫn đang tạo ra đến « 5,6 % trị giá gia tăng cho kinh tế toàn cầu », như hãng tin tài chính Mỹ Bloomberg (ngày 10/01/2024) đã thẩm định.
Nhờ vào một vị trí chiến lược về địa lý, eo biển Đài Loan với chiều rộng chưa đầy 200 km lại là nơi mà 48 % các tàu chở hàng của thế giới phải đi qua, để đưa hàng từ các nhà máy của Trung Quốc đến tận các hải cảng của Âu Mỹ. Một cuộc xung đột vũ trang trong vùng biển này tai hại « gấp bội » so với tất cả những gì mà thế giới đã trải qua từ trước tới nay : các hoạt động xuất nhập khẩu không chỉ của Đài Loan và Trung Quốc với phần còn lại của thế giới sẽ bị gián đoạn, mà thậm chí các nước trong vùng, từ Nhật Bản đến Úc cũng sẽ bị vạ lây.
Nghiên cứu của Bloomberg chỉ ra rằng 80 % giao thương của Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước ASEN sẽ sụt giảm trong trường hợp nổ ra chiến tranh, toàn bộ giao thương Mỹ-Trung bị đóng băng. Kinh tế Đài Loan « hoàn toàn sụp đổ », gần 17 % GDP của Trung Quốc cũng sẽ bốc hơi và 6,7 % GDP của Hoa Kỳ tan thành mây khói …
Do vậy, theo Bloomberg, Bắc Kinh sẽ không dại để khai hỏa vào một nguồn cung cấp chip điện tử bảo đảm hơn 50 % thị trường của toàn cầu, một lĩnh vực mang tính sống còn ngay cả với các tập đoàn Trung Quốc.
Thế nhưng, lá bùa hộ mạng đó của Đài Loan xem chừng cũng có giới hạn. Chuyên gia về tài chính cơ quan tư vấn BSI Economics Evelyne Banh giải thích :
Evelyne Banh : « Đúng là Trung Quốc có trọng lượng về kinh tế quá lớn so với của Đài Loan, nhưng từ nhiều năm nay, Bắc Kinh phải đối mặt với nhiều thách thức cả về đối nội lẫn đối ngoại và những thách thức đó đè nặng lên tiềm năng tăng trưởng lâu dài của nước này. Trái lại, Đài Loan tuy rất nhỏ so với ông khổng lồ sát cạnh, nhưng lại là một nền kinh tế năng động và tăng trưởng nhờ những phát minh kỹ thuật … Đài Loan thống lĩnh ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu và đang ở trên đỉnh cao của cả một chuỗi cung ứng ….
Tuy nhiên, khi mà 25% GDP của Đài Loan phụ thuộc vào công nghệ bán dẫn thì đây cũng chính là một cái bẫy, vì như vậy kinh tế của hòn đảo này lệ thuộc vào những trồi sụt thất thường của mảng công nghệ bán dẫn (…) Cũng như nhiều nền kinh tế khác trong vùng Đông Bắc Á, Đài Loan đang thiếu nhân tài, thiếu một đội ngũ kỹ sư, chuyên viên kỹ thuật… để giữ được vị trí hàng đầu trong lĩnh vực công nghiệp nhạy cảm này. Vấn đề càng thêm nghiêm trọng do dân số Đài Loan cũng đang trên đà lão hóa. Tỷ lệ sinh đẻ ở Đài Loan là chưa đầy một đứa trẻ một đầu người ».
Trong nghiên cứu hồi tháng 11/2023, cơ quan tư vấn BSI Economics nhắc lại lời lãnh đạo tập đoàn bán dẫn Đài Loan TSMC Mark Liu : Trong trường bị Trung Quốc chiếm đoạt, TSMC sẽ làm tất cả để «vô hiệu hóa các cơ sở của mình », thay vì để lọt vào tay Trung Quốc. 90 % số nhà máy của TSMC là nằm trên lãnh thổ Đài Loan.
Tue, 16 Jan 2024 - 154 - 2024 : Nga - Trung Quốc, một trục thương mại mới của thế giới
Bầu cử tổng thống Mỹ và hai cuộc xung đột ở Ukraina và Gaza sẽ định đoạt tương lai kinh tế toàn cầu năm 2024. Nga và Trung Quốc, một trục mới về thương mại toàn cầu đang định hình. Khối BRICS đón nhận 5 thành viên mới, tăng thêm sức mạnh, làm đối trọng với phương Tây. Nhờ chiến tranh Ukraina, Mỹ trở thành nguồn cung cấp dầu thô số 1 của Pháp. 200 ngày trước Thế Vận Hội, Paris trước thách thức tái chế rác thải Olympic 2024.
Trong bài tham luận trên báo Le Monde hôm 29/12/2023 giải Nobel Kinh tế 2001, Joseph Stiglitz, ghi nhận « khả năng Donald Trump đắc cử và một cú sốc dầu hỏa do chiến tranh Israel Hamas gây nên đang đè nặng lên viễn cảnh kinh tế toàn cầu cho năm 2024 ». Hiếm khi nào tất cả các nhà phân tích cùng đồng loạt đánh giá « rủi ro lớn nhất đối với kinh tế toàn cầu 2024 là yếu tố địa chính trị ». Chiến tranh Ukraina bước sang năm thứ ba, xung đột ở Cận Đông đang lôi kéo Hồng Hải vào vòng xoáy giao tranh, làm dấy lên trở lại nguy cơ lạm phát.
Ẩn số chính trị là mối đe dọa lớn nhất
2024 là năm mà dân cư tại những quốc gia chiếm« 60 % GDP toàn cầu » được kêu gọi bầu lại các lãnh đạo, từ ở Nga đến Ấn Độ, Anh Quốc ; từ ở Đài Loan đến Hoa Kỳ. Ludovic Subran, kinh tế trưởng hãng bảo hiểm Alliance đặc trách về giao thương quốc tế, nhấn mạnh « chính những ẩn số về chính trị đang đặt nhiều hộ gia đình và các doanh nghiệp trong thế chờ đợi ». 2024 do vậy có thể là một năm tăng trưởng toàn cầu không « tìm được lực đẩy ».
Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế dự phóng tăng trưởng của Hoa Kỳ cho năm nay chỉ đạt 1,5 %, thấp hơn nhiều so với mức 2,1% trong năm 2023. Tại châu Âu, tình hình cũng không sáng sủa hơn và tăng trưởng trong khu vực đồng euro có thể chỉ bằng 1/3 so với hồi năm ngoái. Trong khi đó, Trung Quốc vẫn « loay hoay » đi tìm chiếc đũa thần và chắc chắn ông khổng lồ châu Á này sẽ không là « đầu tầu tạo đà cho tăng trưởng của thế giới » trong năm 2024 như thẩm định của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế.
Pháp : CAC40 chia lãi 100 tỷ euro cho cổ đông
2024 cũng là năm mà « nhiều thách thức chờ đợi các đại tập đoàn của Pháp » : 40 doanh nghiệp hàng đầu tham gia sàn chứng khoán trong bảng xếp hạng CAC40 sau một năm 2023 thành công rực rỡ, chia 100 tỷ euro tiền lãi cho các cổ đông, nhưng giờ đây từ ngành thời trang hạng sang đến các tập đoàn năng lượng, từ các ngân hàng lớn hay các công ty trong ngành xây dựng đến ngành công nghiệp quốc phòng đều hướng nhìn về kết quả bầu cử đầu tháng 11 ở Hoa Kỳ, về tình hình tại Biển Đông, về tham vọng của Bắc Kinh với Đài Loan, về khả năng « bật dậy » của kinh tế Trung Quốc, về những nước cờ của Nga trên hồ sơ Ukraina hay về số phận của dải Gaza ở Cận Đông.
Liên Hiệp Châu Âu bị nhiều cuộc đọ sức về thương mại với Washington, với Bắc Kinh thách thức. Quyết định cấm bán xe hơi chạy bằng xăng, từ năm 2035 Bruxelles tạo điều kiện cho ô tô điện của Trung Quốc tràn ngập thị trường nội địa, bót chết ngành công nghiệp xe hơi lâu đời của châu Âu với những tên tuổi lớn như Volkswagen của Đức, Fiat của Ý hay Renault, Peugeot, Citroën của Pháp …
Với đồng minh Hoa Kỳ, đạo luật chống lạm phát IRA của chính quyền Biden tiếp tục là cái gai giữa hai bờ Đại Tây Dương. Giới chuyên gia dự báo trước ngày bầu cử tổng thống Mỹ, Washington không thể nhượng bộ hay nương nhẹ các đối tác châu Âu.
Dầu - khí : Một trật tự mới
Trên bàn cờ năng lượng quốc tế, một trật tự mới đã hình thành : từ cuối năm 2022, sau 10 tháng Nga đưa quân xâm chiếm Ukraina, Mỹ đã dễ dàng qua mặt Na Uy và Nga để trở thành nguồn cung cấp khí đốt số 1 của Pháp và từ năm ngoái thì các nhà sản xuất dầu thô của Hoa Kỳ cũng thống lĩnh thị trường Pháp. Năm 2018, Mỹ đứng hạng 9 trong số các nguồn cung cấp khí đốt cho Pháp. Nga bị mất 4 hạng theo thống kê của bộ Chuyển Tiếp Năng Lượng Pháp. Điều đó không cấm cản Pháp nói riêng và thế giới nói chung vẫn trong tình trạng « khát dầu »như chuyên gia về năng lượng, Francis Perrin, giám đốc nghiên cứu Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược IRIS giải thích trên đài truyền hình Pháp France 24 :
« Dầu hỏa chiếm một vai trò rất lớn và rất quan trọng trong các hoạt động kinh tế toàn cầu. Đây là nguồn năng lượng chủ chốt trong lĩnh vực giao thông trên bộ, trên không và trên biển ; là nguyên liệu thiết yếu của ngành công nghiệp hóa dầu và trong các nhà máy sản xuất nhựa. Trong ba loại năng lượng hóa thạch thì dầu hỏa chiếm vị trí cao nhất với khoảng 30 %, đứng trước than đá và khí tự nhiên. Hiện tại, ngành giao thông tùy thuộc từ 90 đến 100 % vào dầu lửa, và đây cũng là nguồn năng lượng bảo đảm 100 % các hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nhựa. Tiêu thụ toàn cầu năm 2023 đã vượt kỷ lục của hồi năm 2019, tức là trước khi xảy ra đại dịch COVID. Nhu cầu tiêu thụ trong năm nay sẽ còn cao hơn nữa so với kỷ lục của năm 2023 ».
Cận Đông và nguy cơ « một cơn sốt dầu »
Trong những tuần lễ cuối năm 2023, giới trong ngành báo động « giá năng lượng lại bị đẩy lên cao », nhưng lần này không vì Liên Âu lệ thuộc vào dầu khí của Nga mà là do tác động dây chuyền từ xung đột ở dải Gaza giữa Israel và phong trào Hồi giáo Palestine Hamas : phe Hồi giáo Houthi ở Yemen được Iran bảo trợ, liên tục tấn công vào các tàu chở hàng của phương Tây hay của các nước ủng hộ Israel đi qua Hồng Hải.
Nhiều tập đoàn như BP của Anh và các hãng vận tải đường biển thông báo « tránh đi qua khu vực nhạy cảm này ». Đánh đường vòng quanh lục địa châu Phi vừa « dài ngày hơn, tốn kém hơn » … Lập tức giá dầu Brent tăng thêm 3 % trong một tuần lễ và giá khí đốt tăng thêm 12 % trong một ngày. Hồng Hải là nơi 8 % khí hóa lỏng LNG của thế giới phải đi qua.
Theo một số các chuyên gia về an ninh hàng hải quốc tế, tình hình sẽ « nóng lên thêm nữa trong những tuần lễ và những tháng sắp tới ».Đối với người dân bình thường, câu hỏi quan trọng nhất là liệu rằng các hộ gia đình có phải đối mặt với một làn sóng lạm phát nữa hay không. Theo phó giám đốc Đài Quan Sát về Tình Hình Kinh Tế Pháp OFCE, Mathieu Plane, « khủng hoảng lạm phát dường như bắt đầu thuộc về quá khứ, thế nhưng hiện vẫn còn quá nhiều điều bất trắc, nhất là về địa chính trị ». Chỉ cần xung đột ở Cận Đông lan rộng là cũng đủ để giá dầu lại tăng lên và thương mại toàn cầu lại bị khuấy động.
Nga - Trung Quốc, một trục giao thương mới ?
Cũng về thương mại và năng lượng, từ đầu chiến tranh Ukraina, Trung Quốc trở thành đối tác « cột trụ » của Matxcơva trong lĩnh vực năng lượng, thay vào chỗ trống mà các khách hàng châu Âu để lại. Trong chuyến công du vào trung tuần tháng 10/2023, tổng thống Vladimir Putin hài lòng thấy « quan hệ đối tác toàn diện và hợp tác chiến lược » song phương đạt « đỉnh cao chưa từng thấy ». Theo lãnh đạo tập đoàn Rosneft, Igor Setchine, « năng lượng chiếm 75 % kim ngạch xuất khẩu của Nga sang Trung Quốc ». Nga đã qua mặt Ả Rập Xê Út để trở thành nguồn cung cấp quan trọng nhất cho Trung Quốc. Cũng phải nói thêm là Bắc Kinh mua dầu khí của Nga với giá rẻ hơn trung bình 30 % so với giá của thị trường.
Lãnh đạo Nga và Trung Quốc đề ra mục tiêu tổng trao đổi mậu dịch hai chiều đạt ngưỡng 200 tỷ đô la trong năm nay. Song nguyệt san kinh tế Challenges số ra tháng 3/2023 ghi nhận : đành rằng Nga dưới tác động chiến tranh Ukraina đã « xoay trục » sang châu Á, nhưng đối với Bắc Kinh, ngay cả trong lĩnh vực năng lượng, Matxcơva chỉ là một trong số các nguồn cung cấp. Bởi ngoài Nga, Turkmenistan, Kazakhstan hay Uzbekistan vẫn là những « đối tác lớn » về khí đốt. Riêng đối với khí hóa lỏng, Trung Quốc tin tưởng vào hai nguồn cung cấp là Úc và Hoa Kỳ, cho dù bang giao giữa Trung Quốc với hai thành viên trong liên minh quân sự AUKUS này đang gặp nhiều sóng gió.
BRICS mở rộng : 3 mỏ dầu
Điều đó không cấm cản các ông Tập Cận Bình và Vladimir Putin chia sẻ chung một tầm nhìn : cả hai cùng muốn tăng thêm sức mạnh, làm đối trọng với phương Tây. Bằng chứng cụ thể nhất là kể từ ngày 01/01/2024, khối 5 nền kinh tế đang trỗi dậy BRICS - bao gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi đã chính thức kết nạp thêm 5 thành viên mới (chính quyền mới tại Achentina, ứng viên thứ 6, đã từ chối tham gia khối này).
BRICS mở rộng kết nạp thêm Iran, Ai Cập, Ethiopia, Ả Rập Xê Út và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất. BRICS một câu lạc bộ 5 nước đại diện cho các nền kinh tế đang phát triển chính thức hình thành từ năm 2009 giờ đây có tổng cộng 10 thành viên.
Trả lời RFI tiếng Việt, giáo sư kinh tế Julien Vercueil, Viện Ngôn Ngữ và Văn Hóa Phương Đông, INALCO, phân tích rất kỹ về những mẫu số chung và những bất đồng giữa các thành viên ban đầu của nhóm BRICS, về quyết định chọn 6 nước tham gia nhóm BRICS (nhưng Achentina giờ chót bỏ cuộc) trong số hơn 40 ứng viên. Giáo sư Vercueil là tác giả của nhiều bài nghiên cứu về khối này. Gần đây nhất là bài tham luận mang tựa đề : BRICS : Les incertitudes d’un forum « alternatif » - BRICS : Những bất trắc về một diễn đàn « thay thế »,bài viết đăng trên tạp chíPolitique Etrangère,số 4/2023.
Julien Vercueil : « Liên quan đến trật tự mới về kinh tế và thương mại của thế giới, các quốc gia đang trỗi dậy phản đối thế áp đảo của đồng đô la Mỹ và ở phía sau lập luận đó, các bên công kích Hoa Kỳ dùng kinh tế để áp đặt luật chơi với cộng đồng quốc tế. Đây rõ ràng là quyết tâm của một số thành viên trong nhóm BRICS mà đứng đầu là Nga và Trung Quốc. Matxcơva và Bắc Kinh càng lúc càng trực tiếp dùng đơn vị tiền tệ của mỗi bên để thanh toán các dịch vụ xuất nhập khẩu song phương. Vị trí của đô la trong thương mại giữa Trung Quốc với Nga đã bị thu hẹp lại. Vấn đề càng trở nên thời sự hơn nữa từ khi Nga bị phương Tây trừng phạt vì đưa quân xâm lược Ukraina. Dưới các đòn trừng phạt, các doanh nghiệp Nga phải tìm ngõ thoát để tiếp tục giao thương với phần còn lại của thế giới. Trung Quốc là điểm tựa quý giá, cho phép mua bán với các đối tác mà không cần phải sử dụng đô la Mỹ ».
Nhìn vào danh sách 5 thành viên mới của khối BRICS mở rộng, Ả Rập Xê Út là một đồng minh truyền thống của Hoa Kỳ ở Trung Đông, là « mỏ dầu của thế giới ».Một mỏ dầu còn chưa được khai thác là Iran : Teheran lại là kẻ thù không đội trời chung của Mỹ, là một đối tác có trọng lượng của Nga, là một quốc gia có tham vọng trang bị vũ khí nguyên tử. Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất là thành viên nặng ký của OPEC/OPEP khối các quốc gia xuất khẩu dầu hỏa, nhưng cũng là quốc gia Ả Rập đầu tiên trang bị nhà máy điện hạt nhân, là một quốc gia tiên phong trong lĩnh vực năng lượng mặt trời của thế giới. Dubai là một trung tâm tài chính khu vực. Abou Dahbi vừa là đồng mình thân thiết của Ả Rập Xê Út và Hoa Kỳ, vừa có quan hệ rất chặt chẽ với cả Nga lẫn Trung Quốc.
Về phần Ai Cập, với hơn 38 % lạm phát trong năm qua, nợ nần chồng chất, chắc chắn kinh tế không phải là điểm mạnh giúp chính quyền của tổng thống al Sissi tham gia câu lạc bộ BRICS mở rộng. Nhưng trụ sở của Liên Đoàn Ả Rập đặt tại Cairo.
Trong trường hợp của Ethiopia, quốc gia này lại càng không đủ tiêu chuẩn để được xem là một « nền kinh tế đang trỗi dậy », thế nhưng lá chủ bài lớn nhất của Addis Abeba là « một mối bang giao hữu hảo với cả Matxcơva, Bắc Kinh lẫn Washington ». Giáo sư Julien Vercueil Viện INALCO phân tích tiếp :
Julien Vercueil :« Một cách khách quan, việc khối BRICS đón thêm các thành viên mới không mấy quan trọng trên phương diện kinh tế. Hiểu theo nghĩa là số nước tham gia được nhân lên gấp đôi, nhưng GDP của nhóm 10 nước tham gia BRICS chỉ tăng thêm có 10 %. Điều đó có nghĩa là kinh tế không phải là yếu tố quan trọng nhất trong quyết định kết nạp thêm các thành viên mới. Điểm nhấn thứ nhì là yếu tố năng lượng. Ba trong số 5 thành viên mới (Iran, Ả Rập Xê Út và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất) là những ông khổng lồ trên bàn cờ năng lượng. Đây mới là tiêu chí quan trọng khi BRICS đón nhận thêm các thành viên mới. Theo cá nhân tôi thì Trung Quốc đã có ảnh hưởng rất lớn trong quyết định về danh sách các nước tham gia nhóm BRICS. Khối này muốn chứng minh là có sức thu hút lớn qua việc kết nạp thêm những nước khác và Bắc Kinh đã chọn củng cố quan hệ với những nền kinh tế nào có lợi cho Trung Quốc và có trọng lượng về mặt địa chính trị ».
Cuộc chạy đua xử lý rác thải Olympic 2024
200 ngày trước lễ khai mạc Thế Vận Hội, Paris và vùng Ile-de-France đặt mua thêm 16.000 thùng rác để trang bị cho các ngôi làng Olympic. Paris chạy nước rút tìm mọi giải pháp thực hiện lời hứa tái chế hay xử dụng lại 80 % rác thải từ sự kiện thể thao trọng đại này. Pháp muốn qua mặt Tokyo năm 2021 và Luân Đôn 2012 tranh chức vô địch Thế Vận Hội « sạch » nhất trong lịch sử thể thao Olympic.
Ba năm trước, 62 % trong số 2.700 tấn rác ở Olympic Tokyo đã được « tái chế », nhưng đó là một khối lượng rác « không thấm vào đâu » bởi dưới tác động đại dịch Covid, không một du khách nước ngoài nào được đặt chân đến xứ Hoa Anh Đào vào mùa hè 2021. Lần này thách thức sẽ lớn hơn nhiều đối với thành phố Paris !!!
Để « tái chế » hay « sử dụng lại » 80 % rác Olympic, thành phố Paris trông đợi nhiều vào đối tác chính là hãng sản xuất nước ngọt của Mỹ Coca-Cola. Hiềm nỗi tập đoàn này là nguồn « thải rác nhựa và gây ô nhiễm » nhất cho hành tinh !!! Trước mắt, tập đoàn Mỹ có trụ sở ở thành phố Atlanta, bang Georgia, với những lon nước màu đỏ nổi tiếng cam kết lắp đặt 700 vòi nước trên toàn nước Pháp phục vụ các vận động viên và khán giả dự Thế Vận Hội 2024, dùng ly giấy hay nhựa tái chế, dùng chai thủy tinh và cho phép khán giả vào các sân vận động với những bình nước cá nhân để hạn chế lượng rác thải.
Tue, 09 Jan 2024 - 153 - Toàn cảnh kinh tế thế giới 2023
Tạm đẩy lùi được lạm phát, giữ được ổn định tăng trưởng ở mức 3% cho toàn cầu bất chấp hai cuộc xung đột lớn trên mặt trận Ukraina và tại Cận Đông. Thị trường chứng khoán khắp nơi vững mạnh, ngoại trừ của Trung Quốc. Tập đoàn viễn thông Việt Nam FPT đẩy mạnh những nước cờ tại châu Âu và « hiện tượng Taylor Swift » tác động trực tiếp đến kinh tế Hoa Kỳ.
Tạp chí kinh tế cuối cùng của năm 2023 xin được dành đề nói về những sự kiện ít được nhắc đến trong năm.
Khống chế được lạm phát
Khác hẳn với mùa đông 2022, ít thấy Liên Hiệp Châu Âu khuyến cáo công dân « sử dụng năng lượng một cách điều độ »,xăng dầu ở Pháp « mềm giá hơn » so với đúng một năm trước đây.
Trên thị trường dầu hỏa, theo Viện Thống Kê và Nghiên Cứu Kinh Tế Quốc Gia Pháp INSEE, tháng 10/2023, giá một thùng dầu Brent tại Luân Đôn giảm hơn 26% so với đỉnh điểm hồi tháng 6/2022. Giá cả thực phẩm vẫn còn cao, nhưng không còn tăng lên theo từng ngày. Nhờ vậy, theo báo cáo được Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế công bố hồi tháng 9/2023 « trung bình lạm phát trên thế giới đang từ 8,7% năm 2022 giảm xuống còn 6,9% ». Đây là một tin vui với cộng đồng quốc tế.
Một chút thất vọng vì châu Á ?
Ngân Hàng Phát Triển Á Châu ADB, trong báo cáo hôm 13/12/2023, nâng dự phóng tăng trưởng cho toàn khu vực này lên thành 4,9% cho cả năm (thay vì 4,7% như trước đó). Thành quả này có được nhờ « tiêu thụ nội địa của các quốc gia trong vùng, và tăng trưởng của Ấn Độ -Trung Quốc vững hơn mong đợi ». ADB dự trù GDP của Trung Quốc tăng 5,2% và của Ấn Độ 6,7%. Định chế ngân hàng này hơi thất vọng về những thành tích của khối Đông Nam Á do các ngành xuất khẩu bị chựng lại, dự phóng tăng trưởng của ADB cho khu vực này sụt giảm 0,3 điểm (đang từ 4,6% rơi xuống còn 4,3%). Căn cứ vào báo cáo được cập nhật của Ngân Hàng Phát Triển Châu Á thì GDP của Việt Nam trong năm 2023 được dự báo tăng 5,2%. Châu Á cũng bớt bị áp lực vì lạm phát ( trung bình dao động ở mức 3,6%).
Mỹ, Nga và Trung Quốc
Nhìn đến nền kinh tế số 1 toàn cầu : Tăng trưởng và tình hình thất nghiệp ở Mỹ tuy không bằng so với hồi 2022 nhưng vẫn « ổn định », lạm phát không còn tăng 8% như năm ngoái. Do vậy Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ FED « tạm ngừng tăng thêm lãi suất ngân hàng ».
Nếu như Âu Mỹ đã « không chế được lạm phát » thì kinh tế Nga đã sáng sủa hơn so với hồi 2022 : GDP tăng 2,25% trong cả năm 2023, theo báo cáo được cập nhật của IMF hồi tháng 10/2023.
Riêng Trung Quốc vẫn gây thất vọng. Hôm 05/12/2023 cơ quan thẩm định tài chính Moody’s vừa hạ điểm tín nhiệm Trung Quốc, do nợ của nước này tăng quá mạnh trong một thời gian rất ngắn, đặc biệt là nợ của các chính quyền địa phương.
12 ngàn tỷ đô euro nợ của các tỉnh thành Trung Quốc. FDI trong 9 tháng đầu 2023 giảm 92% so với cùng thời kỳ năm ngoái.
Năm 2022, tổng nợ công của các chính quyền cấp tỉnh Trung Quốc lên đến 12.000 tỷ euro, tương đương với 76% GDP của cả nước. (Để so sánh, GDP của Pháp, Đức và Ý cộng lại chưa đầy 10.000 tỷ euro). Tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm 2023 giảm 92% so với cùng thời kỳ năm ngoái.
Trả lời RFI tiếng việt, chuyên gia về kinh tế và luật Isabelle Feng, trung tâm nghiên cứu Perelman, Đại học Bruxelles- Bỉ, đánh giá về thế lưỡng nan của Bắc Kinh hiện nay :
« Để có thể giải quyết được khối nợ to lớn này của các chính quyền ở cấp tỉnh, phải có nhiều phương tiện. Vấn đề là túi tiền của Bắc Kinh bắt đầu cạn dần. Trước kia trung ương có thể trông cậy vào xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong ba năm trở lại đây, hàng xuất khẩu Trung Quốc bắt đầu bị một số quốc gia láng giềng như Việt Nam hay Malaysia cạnh tranh. Cùng lúc đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài không còn ồ ạt đổ về Hoa Lục nữa. Thành thử vào lúc cần phải chi ra nhiều để cứu nguy kinh tế đang lún sâu vào nợ nần, thì Trung Quốc mất khả năng tài chính để đài thọ những chương trình đó ».
Chứng khoán thế giới tăng mạnh
Có lẽ điều này giải thích vì sao các sàn chứng khoán tại Hồng Kông và Hoa Lục là những nơi duy nhất mất giá trong 12 tháng qua. Trong khi đó, từ Frankfurt đến Milano, từ Wall Street đến Luân Đôn hay Paris, chỉ số chứng khoán liên tục tăng mạnh, « đi từ kỷ lục này đến kỷ lục khác ».
CAC40 của Pháp lần đầu tiên vượt ngưỡng 7. 600 điểm trong phiên giao dịch 14/12/2023. Nhờ đâu mà các sàn chứng khoán sung sức như vậy ? Chuyên gia tài chính Christopher Dembik, thuộc quỹ đầu tư Pictet Asset Management, trên đài phát thanh tư nhân Radio Classique, trả lời :
« Toàn cảnh kinh tế không đến nỗi tệ. Đúng là Cục Dự Trữ Liên Bang thông báo ngừng tăng lãi suất chỉ đạo. Thông thường biện pháp này nhằm kích thích kinh tế và cũng ngầm để cho hiểu rằng, kinh tế có xu hướng bị chựng lại. Nhưng chúng ta hoàn toàn không rơi vào kịch bản đó. Mỹ không có nguy cơ bị suy thoái vào năm tới. Thành thử thông điệp ở đây là kinh tế tuy có tăng chậm lại một chút, hạ lãi suất ngân hàng do vậy chỉ là để kích thích kinh tế năng động hơn và đó là kịch bản lý tưởng đối với các nhà đầu tư trên các sàn chứng khoán. Điều đó tiếp tục giúp cho các nhà đầu tư lạc quan ».
Chảy máu tư bản ở các nước nghèo
Ngân Hàng Thế Giới ngày14/12/2023 một lần nữa báo động về tình hình các nước nghèo mang nợ chồng chất : Ethiopia, Zambia, Ghana hay Sri Lanka chắc chắn không là những quốc gia duy nhất có nguy cơ vỡ nợ. Năm 2022, khoảng 100 nước nghèo trên thế giới mang nợ tổng cộng 443,5 tỷ đô la. Lãi mà các quốc gia này phải thanh toán cho các chủ nợ trong năm nay tăng thêm 10% và sẽ còn tăng thêm nữa vào năm 2024.
Vấn đề là các nhà đầu tư không muốn bỏ tiền vào những vùng « nguy hiểm đó » : trong 12 tháng qua, 115 tỷ đô la vốn đầu tư nước ngoài đã rút khỏi các nền kinh tế chậm tiến nhất trên thế giới.
Cơ quan tư vấn Global Sovereign Advisory, trụ sở tại Paris, báo động từ nay đến cuối 2025, có đến 7 quốc gia bị đe dọa mất khả thanh toán. Hơi bất ngờ là trong bảng xếp hạng đó có Thái Lan.
Công nghệ : Một công ty Pháp thuộc về Việt Nam
Trong thế giới công nghệ, hôm 06/12/2023 tập đoàn viễn thông của Việt Nam FPT loan báo mua lại 80% cổ phẩm của AOSIS, trụ sở tại Toulouse, miền nam nước Pháp. Các bên giữ kín thông tin liên quan đến trị giá hợp đồng. Công ty tư vấn công nghệ Pháp hoạt động từ 2010 có thể giúp Việt Nam mở rộng địa bàn tại châu Âu.
AOSIS ban đầu chuyên về lĩnh vực phát triển phần mềm, nhưng đã lấn sang các lĩnh vực khác, từ Big Data đến công nghệ Cloud, DataScience, DataViz … và nhất là mảng tư vấn cho các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực, như hàng không vận tải hay hàng không vũ trụ.
AOSIS hiện diện tại Paris, Toulouse, Nantes và Lyon. Trong khi đó tập đoàn Việt Nam qua chi nhánh FPT Software bắt rễ vào Pháp từ 2008 với ba trung tâm tại Paris, Toulouse và Sophia Antipolis.
Châu Âu hiện là một trong những thị trường quan trọng nhất của FPT ở hải ngoại. Theo tạp chí Pháp chuyên về tin học, L’Informaticien, trước AOSIS, tập đoàn viễn thông Việt Nam đã thâu tóm một số các đối tác trong ngành tại Slovakia, Mỹ và cả Nhật Bản. FPT cũng có những quan hệ đối tác quan trọng với hãng chế tạo máy bay của châu Âu Airbus, với tập đoàn bưu điện Geopost.
« Hiệu ứng kinh tế Taylor Swift »
Tạp chí Mỹ TIME ngày 06/12/2023 bình chọn danh ca người Mỹ Taylor Swift là « Nhân vật trong năm ». Với hơn 26 tỷ lượt nghe trên Spotify, một vòng lưu diễn ngoại hạng gồm 146 buổi tại hơn 20 quốc gia, tác giả của Shake it Off và Cruel Summer đã làm nên cả một cuộc cách mạng trong ngành công nghiệp sản xuất đĩa hát. Taylor Swift còn « có ảnh hưởng lớn với kinh tế của Hoa Kỳ ».
Phim tài liệu The Eras Tour về những buổi trình diễn của Taylor Swift đang phá kỷ lục, thu về hơn 1 tỷ đô la cho hãng sản xuất. Mới 33 tuổi, Taylor Swift không ngần ngại kiện những « ông lớn » trong ngành, chia tay với các tay nhà sản xuất, hay các trung tâm môi giới tham lam. Cô cũng đặt điều kiện để cho phát hành phim về vòng lưu diễn 2023.
Ngân hàng trung ương Mỹ Fed đã nói đến« hiện tượng Taylor Swift », bởi các hoạt động của cô « tác động đến kinh tế Mỹ ». Mỗi vé xem Taylor Swift trình diễn là 5-7 trăm đô la. Mỗi lần xuất hiện trên sân khấu, cô huy động hàng chục ngàn khán giả. Chỉ cần đội ngũ 50.000 fan theo chân Taylor Swift một đêm là đủ để mang về bạc triệu cho thành phố nơi cô đến lưu diễn.
Trong năm 2023, Taylor Swift đã biểu diễn 66 buổi trên đất Mỹ và là con gà đẻ trứng vàng giúp cho các hoạt động kinh tế « ăn theo »thu về hơn 2 tỷ đô la. Taylor cũng là « yếu tố gây lạm phát » do giá áo T-shirt cô bán ra đắt hơn nhiều so với bình thường, mà hàng vẫn không đủ bán. Taylor Swift đi đến đâu thì giá phòng khách sạn tăng lên đến đấy. Đó là chưa kể các buổi trình diễn của cô gái tóc vàng này thường « cháy vé » và những fan cuồng nhiệt nhất sẵn sàng mua vé chợ đen để tận mắt trông thấy Taylor trên sân khấu.
Bà ngoại của Taylor từng là ca sĩ nhạc opera, bố của cô là một tay môi giới chứng khoán làm việc cho ngân hàng Merrill Lynch : Taylor Swift là một nghệ sĩ đa tài, kết hợp được những cái khiếu thiên phú của cả hai thế hệ đi trước.
Tue, 26 Dec 2023 - 152 - Trung Quốc cạn tiền để tài trợ tăng trưởng ?
Việc cơ quan thẩm định tài chính Mỹ Moody’s hạ điểm tín nhiệm « nợ dài hạn » của Trung Quốc để lộ rõ hai vấn đề : Trung ương không đủ khả năng giải quyết núi nợ 12.000 tỷ euro của các tỉnh thành, tương đương với 76 % GDP của cả nước và Bắc Kinh đang « mất khả năng đài thọ cho mô hình tăng trưởng » như từ trước tới nay.
Trả lời RFI Việt ngữ, chuyên gia Isabelle Feng, trung tâm nghiên cứu Perelman, Đại Học Bruxelles, Bỉ, đã đưa ra những kết luận như trên sau khi trình bày toàn cảnh tài chính không mấy sáng sủa của Trung Quốc hiện tại.
Trong công việc, bà nghi nhận : càng lúc càng khó tiếp cận với những thông tin về kinh tế và tài chính Trung Quốc mà không sợ bị khép vào tội « làm gián điệp » hay « vi phạm luật an ninh » của nước này. Theo nhà nghiên cứu Isabelle Feng, cấm « để lộ thông tin mật » không chỉ là tấm bình phong nhằm che dấu những thông tin bất lợi cho kinh tế Trung Quốc, mà còn là dấu hiệu báo trước Bắc Kinh chấm dứt chính sách « minh bạch hóa các thông tin về thực trạng kinh tế và tài chính » nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào Hoa Lục.
Quả bom nổ chậm 12.000 tỷ euro
Hôm 05/12/2023, cơ quan thẩm định tài chính Mỹ Moody’s hạ điểm tín nhiệm « nợ dài hạn » của Trung Quốc đang từ A1, tức là « ổn định », xuống thành A1 , có nghĩa là triển vọng xấu ». Lý do : Moody’s đánh giá kinh tế Trung Quốc có nguy cơ « tăng trưởng thấp về trung hạn » và « những hậu quả từ khủng hoảng bất động sản sẽ kéo dài ». Nhưng nghiêm trọng hơn cả là mức nợ đáng báo động của các chính quyền địa phương.
Cơ quan thẩm định tài chính này dự báo GDP Trung Quốc sẽ chỉ tăng khoảng 3,8 %/ năm trong giai đoạn 2026-2030. Từ 2017, Trung Quốc mới lại bị hạ điểm tín nhiệm, vào lúc mà Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF trong tài liệu được cập nhật gần đây báo động : Ngoài những khoản nợ « chính thức » từ phía các chính quyền địa phương, còn phải chú ý đến khối nợ « không chính thức » đã vay dưới dạng « thành đầu trái », tức là những trái phiếu do các chính quyền địa phương phát hành mà không được Trung Ương đứng ra bảo lãnh, gọi tắt theo tiếng Anh là LGFV.
Chỉ riêng khoản LGFV này hiện đã lên tới gần 9.000 tỷ euro, tương đương với 50 % GDP của nền kinh tế thứ hai toàn cầu. Một điểm đáng chú ý khác đó là món nợ này đã « tăng rất nhanh trong hai năm trở lại đây ».
Như mỗi lần bị các cơ quan thẩm định tài chính quốc tế - chủ yếu là « ba ông lớn Big Three » Fitch, Moody’s và S&P của Mỹ hạ điểm tín nhiệm, Trung Quốc luôn phản bác những kết luận bất lợi cho mình. Lần này cũng vậy. Bộ Tài Chính giải thích là nhờ những « nền tảng vững chắc », « kinh tế tiếp tục phục hồi » từ khi Trung Quốc mở cửa lại các hoạt động kinh tế sau 3 năm áp dụng chính sách Zero Covid để chống dịch và Trung Quốc là « một động cơ tăng trưởng quan trọng của toàn cầu ».
Nợ cấp địa phương tương đương với 76 % GDP
Trả lời đài RFI Việt ngữ, chuyên gia về kinh tế và luật trung tâm nghiên cứu Perelman, Đại Học Bruxelles - Bỉ trước hết giải thích vì sao Trung Quốc bị Moody’s hạ điểm tín nhiệm và điểm qua mức nợ báo động ở cấp địa phương tại quốc gia rộng lớn này.
Isabelle Feng : « Trước hết là do mức nợ của Trung Quốc và từ lâu nay đây chính là đề tài gây bất đồng sâu rộng giữa chính quyền Bắc Kinh với các cơ quan thẩm định tài chính quốc tế. Nói một cách chính xác hơn là Trung Quốc bị hạ điểm tín nhiệm vì mức nợ của các chính quyền ở cấp địa phương, bao gồm cả những khoản nợ đã được chính thức công nhận và những khoản nợ không chính thức (mà các chính quyền địa phương đã đi vay dưới dạng LGFV). Bất đồng ở chỗ là Bắc Kinh không xem nợ của các tỉnh và các chính quyền địa phương là nợ chung của Trung Quốc. Trái lại, khối nợ khổng lồ này là một rủi ro rất lớn đe dọa kinh tế của Trung Quốc. Năm 2022, tổng nợ của các chính quyền địa phương tại Hoa Lục lên tới 12.000 tỷ euro. GDP của Trung Quốc là 18.000 tỷ euro. Như vậy là nợ của các chính quyền địa phương tương đương với 3/4 GDP của cả nước ».
Trong con số 12.000 tỷ euro nợ mà Isabelle Feng vừa nêu bao gồm nợ chính thức và không chính thức của các chính quyền 30 tỉnh và 4 thành phố lớn nhất Trung Quốc (Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân và Trùng Khánh).
Trong một nghiên cứu gần đây cho trung tâm Asia Centre, bà Isabelle Feng nhắc lại : Giữa tháng 4/2023, chính quyền tỉnh Quý Châu thông báo « mất khả năng thanh toán ». Tổng nợ của Quý Châu năm 2022 lên tới 150 tỷ euro. Quý Châu, được mệnh danh là « Big data Valley » của Trung Quốc, là nơi mà hơn 9.000 công ty ký gửi các dữ liệu và mảng « công nghệ số » chiếm 1/3 thu nhập của cả tỉnh.
Bắc Kinh đã cạn tiền
Nguy hiểm đối với Trung Quốc nằm ở chỗ Quý Châu không là một trường hợp riêng lẻ. Cũng mùa xuân vừa qua, Vũ Hán, thủ phủ của tỉnh Hồ Bắc, bị 259 chủ nợ « vây bủa » đòi được thanh toán 150 triệu euro. Số tiền này tuy nhỏ, nhưng cũng đủ cho thấy nguy cơ « mất khả năng thanh toán » là có thực. Vấn đề lại càng đáng quan ngại hơn, bởi « Quý Châu không là tỉnh mang nợ nhiều nhất » và « không là một trường hợp cá biệt ».
Song theo bà, việc Trung Quốc bị Moody’s hạ điểm còn để lộ một mối lo ngại nghiêm trọng hơn.
Isabelle Feng :« Việc hạ điểm tín nhiệm này cho thấy khả năng tài chính của Trung Quốc có giới hạn. Bắc Kinh không thể tiếp tục tài trợ cho tăng trưởng và thực ra thì các phương tiện của chính quyền trung ương để can thiệp cũng có giới hạn. Tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hoa Lục trong 9 tháng đầu năm nay giảm 92 % so với cùng thời kỳ năm trước, đang từ 140 -150 tỷ đô la đã rơi xuống còn có 15 tỷ. Đây là dấu hiệu cho thấy giới đầu tư không còn tin tưởng vào thị trường Trung Quốc nữa và việc Moody’s hạ điểm tín nhiệm vừa qua càng gây thêm khó khăn ».
Tháng 1/2023, Bắc Kinh một lần nữa khẳng định « trung ương không can thiệp » trả nợ thay cho các chính quyền địa phương. Dù vậy, một toán chuyên gia tài chính ngân hàng từ Bắc Kinh đã được điều đến Quý Dương, thủ phủ tỉnh Quý Châu, để « dàn xếp » mọi việc và chỉ vài ngày sau, thông tin Quý Châu mất khả năng thanh toán đã « biến mất » khỏi các mạng truyền thông thông tin chính thức.
Trung ương và chiến thuật « chim đà điểu »
Isabelle Feng không ngạc nhiên thấy nợ Trung Quốc bị « giáng điểm » bởi năm 2013 Moody’s và một cơ quan thẩm định khác của Mỹ là Fitch từng « hạ điểm an toàn » của Trung Quốc do nợ công của các chính quyền địa phương « tăng quá mạnh và quá nhanh ».
Năm 2017, đến lượt Standard&Poor’s cũng đưa ra quyết định tương tự. Mỗi lần bị giáng điểm như vậy, Bắc Kinh đều tố các các công ty Mỹ này muốn « bôi nhọ » thanh danh của Trung Quốc. Standard&Poor’s 6 năm trước đây đã bị khiển trách là « hồ đồ », « không hiểu biết về tình hình của Trung Quốc » bởi nợ của Trung Quốc « không bao gồm luôn cả khoản nợ của các chính quyền ở cấp tỉnh và địa phương » và nhất là Trung Quốc phủ nhận toàn bộ thông tin liên quan đến các khoản nợ « không chính thức dưới dạng LGFV. Nhưng theo chuyên gia kinh tế trung tâm Perelman, Đại Học Bruxelles thì lập luận của Bắc Kinh không có cơ sở.
Isabelle Feng : « Vấn đề đặt ra là đâu phải vì không đưa số nợ này vào sổ sách kế toán, mà có thể coi như là các chính quyền địa phương Trung Quốc không mang nợ. Trái lại, từ 10 năm nay nợ của các tỉnh thành ở Hoa Lục đã được thổi phồng lên mãi để đến nỗi khoản nợ đó tương đương với 75 % GDP của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Khác biệt quan trọng ở đây là vào thời điểm 2013, kinh tế Trung Quốc đang lên, đang trong tiến trình hội nhập với kinh tế thế giới. Ai cũng muốn mở cửa đón các doanh nghiệp Trung Quốc. Giờ đây, ở vào thời điểm 2023, tình hình đã đổi thay. Thế giới đã trải qua đại dịch Covid với những tác động tai hại kèm theo. Thế giới đang hướng tới việc giảm thiểu mức độ lệ thuộc vào Trung Quốc, để xây dựng lại một mô hình kinh tế, công nghiệp độc lập hơn ».
Phép lạ tăng trưởng của Trung Quốc từ hơn bốn thập niên qua dựa vào xuất khẩu, đầu tư nước ngoài. Hiện tại Âu Mỹ đồng loạt chủ trương de-coupling hay ít ra là de-risking tức giảm thiểu mức độ lệ thuộc vào đối tác châu Á quá lớn này. Về xuất khẩu, Trung Quốc đang bị một số nước láng giềng từ Ấn Độ đến Việt Nam hay Malaysia … cạnh tranh. Về đầu tư trực tiếp nước ngoài thì như vừa nói, FDI vào Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm nay giảm 92 %. Cùng lúc, tiêu thụ nội địa và công nghệ mới chưa đủ vững để trở thành những « đầu tàu tăng trưởng mới » cho cỗ máy kinh tế đồ sộ với gần 1,4 tỷ dân này.
Thời kỳ « minh bạch » sổ sách đã qua ?
Câu hỏi còn lại là làm thế nào để « giải quyết » núi nợ đã lên tới 12.000 tỷ euro ở cấp địa phương ? Nhà nghiên cứu Isabelle Feng không mấy lạc quan.
Isabelle Feng : « Cá nhân tôi không nghĩ là Bắc Kinh còn nhiều khả năng để can thiệp, hay giải quyết vấn đề nợ cho các cấp địa phương. Đành rằng trung ương có thể cấm các quan chức địa phương đi vay thêm, hay là bắt họ phải chịu trách nhiệm về những khoản nợ đó. Riêng với những món nợ đã có thì theo chỗ tôi được biết, thí dụ như khi tỉnh Quý Châu tuyên bố mất khả năng thanh toán, Bắc Kinh lập tức điều một số cán bộ tài chính đến tận nơi để "giải quyết vấn đề". Nhưng đó là biện pháp chữa cháy, và người ta chỉ có thể dập được một vài đám cháy. Nhưng nếu cùng lúc có quá nhiều tỉnh tuyên bố vỡ nợ thì làm sao Bắc Kinh cáng đáng được hết tất cả ? Khó để có thể trang trải được hết mười mấy ngàn tỷ euro nợ cho các chính quyền địa phương, nhất là như vừa trình bày, túi tiền của Bắc Kinh thì có hạn ».
Điểm cuối cùng Isabelle Feng nêu bật là Bắc Kinh lần lượt « cấm cửa » những người từ nước ngoài truy cập vào các trang mạng của Trung Quốc tìm kiếm thông tin về kinh tế, tài chính nước này. Các công ty thẩm định tài chính quốc tế hoạt động tại Hoa Lục rồi đây cũng sẽ khó mà chuyển các thông tin thu thập được tại chỗ về các công ty mẹ ở ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Quy định mới này có hiệu lực từ tháng 7/2022. Trước đó, « luật an ninh và bảo vệ các dữ liệu » được ban hành năm 2021 đã hạn chế đáng kể các quyền tự do thông tin tại quốc gia Cộng sản này.
Tue, 19 Dec 2023 - 151 - Trung Quốc hài lòng về quan hệ bất cân đối và bất lợi cho Liên Âu
Kết thúc hai ngày họp 07 và 08//12/2023 tại Bắc Kinh với lãnh đạo Liên Hiệp Châu Âu, Trung Quốc « không nhượng bộ gì nhiều » trước những đòi hỏi của Bruxelles về một cán cân thương mại « cân đối hơn », về cam kết « ngưng trợ giá hàng xuất khẩu », « tạo sân chơi bình đẳng giữa các nhà sản xuất của Trung Quốc và châu Âu ».
Đáp lại những đòi hỏi này, trong cuộc họp báo kết thúc thượng đỉnh, đại diện của bộ Ngoại Giao Trung Quốc về hồ sơ châu Âu, Vương Lỗ Đồng (Wang Lutong), tuyên bố ngắn gọn : « Trung Quốc không chịu trách nhiệm về thâm hụt mâu dịch của châu Âu (…), nhưng hoàn toàn sẵn sàng mua vào nhiều hơn công nghệ cao cấp nhất của châu lục này ».
Vào lúc kinh tế Trung Quốc đang gặp nhiều khó khăn, một số nhà quan sát từng xem thượng đỉnh lần thứ 24 là cơ hội tốt để chủ tịch Hội Đồng Châu Âu, Charles Michel và chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Ursula von der Leyen mặc cả và thậm chí đặt điều kiện với chủ tịch Tập Cận Bình trên một số điểm.
Bruxelles từ 2019 đã xem Trung Quốc là một « đối thủ mang tính hệ thống ». Sau đại dịch Covid 2020-2022 và chiến tranh Ukraina mà trong đó Bắc Kinh là điểm tựa của Nga, đến mùa xuân 2023 Liên Âu chủ trương « De-risking », tức là giảm mức độ lệ thuộc vào một đối tác quá lớn như Trung Quốc. Trong hơn 5 năm liền, Liên Âu theo đuổi mục tiêu « tự chủ công nghiệp », mà chủ yếu là để đối phó với sức mạnh kinh tế ngày càng lớn của Trung Quốc.
Thâm hụt mậu dịch 400 tỷ euro
Trước ngần ấy nỗ lực để bớt bị chi phối bởi một đối tác thương mại quá lớn, trước ngày thượng đỉnh Bắc Kinh khai mạc, Liên Âu bị một gáo nước lạnh : thâm hụt mậu dịch với Trung Quốc trong năm 2022 « đạt kỷ lục », gần 400 tỷ euro. So với thời điểm trước Covid, hồi 2019, mức nhập siêu này của 27 nước Liên Hiệp Châu Âu đã « tăng gấp đôi ».
Trả lời trên đài truyền hình Pháp-Đức Arte, nhà kinh tế Françoise Nicolas, Viện Quan Hệ Quốc Tế IFRI tại Paris, phân tích về những lý do khiến thâm hụt thương mại của châu Âu với Trung Quốc« đột ngột tăng mạnh » :
« Có nhiều lý do giải thích cho mức nhập siêu nghiêm trọng của Liên Hiệp Châu Âu với Trung Quốc. Một phần là do hàng Trung Quốc có sức cạnh tranh cao, tức là hàng rẻ và châu Âu đọ không lại. Do vậy có thể nói một phần thâm hụt thương mại với Trung Quốc là hiển nhiên và đó là chuyện bình thường dễ hiểu mà chúng ta phải chấp nhận. Để đảo ngược thế cờ, bắt buộc Liêu Âu phải tăng khả năng cạnh tranh và cải thiện năng suất. Điểm không bình thường và cũng là điều cần lưu ý ở đây trong quan hệ thương mại với Bắc Kinh là xuất khẩu của Trung Quốc được chính phủ giúp đỡ. Các doanh nghiệp nước này được trợ cấp của Nhà nước. Đây là một sự cạnh tranh bất bình đẳng ».
Lỗi tại chuyển giao công nghệ cho Trung Quốc
Thâm hụt của Liên Âu với Trung Quốc năm 2019 là 180 tỷ euro, và đã bị đẩy lên đến gần 400 tỷ. Giám đốc trung tâm nghiên cứu Á châu Asia Centre, trụ sở tại Bangkok, Jean François di Meglio giải thích với đài truyền hình France24 đà gia tăng« đột ngột » này do tác động kép từ Covid và các chương trình chuyển giao công nghệ của phương Tây cho Trung Quốc gây nên.
« 2020-2021 là những năm Covid hoành hành, Liên Hiệp Châu Âu không thể bán hay giao máy bay Airbus cho Trung Quốc như mong đợi, trong lúc đây là một cột trụ trong quan hệ thương mại song phương. Điều này cũng đáng lo ngại, vì chúng ta thấy là trong tương lai, máy bay C919 của Trung Quốc sẽ trực tiếp cạnh tranh với Airbus. Nhờ có chuyển giao công nghệ từ Airbus mà Trung Quốc đang vươn lên trong ngành sản xuất máy bay. Thành thử chuyển giao công nghệ cũng là một yếu tố góp phần làm suy yếu Liên Âu trong quan hệ với Trung Quốc ».
Liên Âu và chiến thuật hù dọa
Bị choáng váng vì nhập siêu tăng gấp đôi trong hai năm, trước khi lên đường đến Bắc Kinh, chủ tịch Ủy Ban Châu Âu tuyên bố Bruxelles « không chấp nhận để giao thương hai chiều bất cân đối như vậy kéo dài ».Liên Hiệp Châu Âu gián tiếp cảnh cáo có thể tăng thuế nhập khẩu đánh vào hàng Trung Quốc bán sang châu Âu, hay như Hoa Kỳ, khối 27 thành viên châu Âu cũng sẽ « hạn chế xuất khẩu sang Hoa Lục một số mặt hàng nhạy cảm, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ bán dẫn và công nghệ cao ». Dường như Trung Quốc không mấy « lo sợ » trước những lời hù dọa đó.
Trái lại, giới quan sát ngạc nhiên là tại Bắc Kinh, chính bà Ursula von der Leyen đã « mềm mỏng hơn » trong đối thoại với các lãnh đạo Trung Quốc, từ chủ tịch Tập Cận Bình đến thủ tướng Lý Cường và khẳng định bà « hài lòng » vì Trung Quốc nhìn nhận « trao đổi mậu dịch song phương cần phải được cân bằng ».
Thái độ « mềm mỏng » được giải thích phần nào do Bắc Kinh dọa và đã bắt đầu giới hạn xuất khẩu một số kim loại hiếm, chìa khóa của « chuyển đổi năng lượng xanh » và công nghệ mới của phương Tây.
« Lời nói suông » : Bắc Kinh bổn cũ soạn lại
Tuy nhiên, ông Tập Cận Bình trong cuộc trao đổi với các lãnh đạo châu Âu cũng đã gián tiếp cảnh cáo rằng « đôi bên không nên xem nhau như những đối thủ vì những khác biệt trong hệ thống, cần tránh giảm hợp tác vì có cạnh tranh, không nên lao vào một cuộc đối đầu vì những bất đồng ».
Giới phân tích đồng loạt ghi nhận, đó chỉ là « một lời nói suông » và « trống rỗng ». Françoise Nicolas, giám đốc nghiên cứu đặc trách khu vực Châu Á-Ấn Độ-Thái Bình Dương của Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp nhắc lại lập trường cố hữu của Trung Quốc: đạt đến một mối bang giao « có lợi cho cả đôi bên », nhưng hiểu thế nào về khẩu hiệu đó lại là chuyện khác. Bà chờ đợi « quan hệ Liên Âu-Trung Quốc sẽ không thay đổi hay sẽ được cải thiện » trong tương lai.
Nhà nghiên cứu Elvire Fabry thuộc viện Jacques Delors trên đài truyền hình France24 nêu lên một yếu tố khác : kinh tế Trung Quốc đang đình đốn, cỗ máy sản xuất và xuất khẩu này lại càng cần đến những thị trường tiêu thụ khác. Liên Âu và Mỹ hiện là những nơi « có sức mua hàng Trung Quốc mạnh nhất », hơn hẳn Nga hay các nước đang trỗi dậy.
Khoảng cách kỹ thuật và công nghệ mới đang bị thu hẹp
Cùng lúc thì Trung Quốc giờ đây không chỉ xuất khẩu sang châu Âu máy giặt, tivi, hay máy sấy tóc … mà đã lao vào những thị trường cao cấp. Trung Quốc vừa khánh thành đường xe lửa cao tốc tại Bồ Đào Nha. Ngoài ra Trung Quốc đang dẫn đầu trong nhiều lĩnh vực như pin mặt trời, và nhất là ô tô điện … Do vậy, càng lúc càng khó để Liên Hiệp Châu Âu « lấy lại cân bằng » trong cán cân thương mại với Trung Quốc.
Điều này giải thích vì sao vào tháng 9/2023, Liên Âu đòi mở điều tra về chính sách trợ giá của Trung Quốc cho ô tô điện. Trung Quốc đã chinh phục thị trường thế giới, xuát khẩu hơn một nửa triệu ô tô điện trong sáu tháng đầu 2023. Con số này « tăng 130 % so với cùng thời kỳ năm ngoái ». Xe của Trung Quốc lại quá rẻ so với của châu Âu.
Sau kinh nghiệm về « pin mặt trời Trung Quốc », Bruxelles sợ rằng 26 hãng xe Trung Quốc sẽ « bóp chết những đại gia trong ngành công nghiệp xe hơi lâu đời của châu Âu ». Các hãng xe Trung Quốc mơ ước « bán xe made in China trên thị trường của Đức ». Thực tế không thể phủ nhận là hiện tại Trung Quốc đang dẫn đầu nền công nghiệp ô tô điện thế giới. Tesla của Mỹ quá đắt và quá hiếm để có thể cạnh tranh với những chiếc BYD, Nio hay Xpeng của Trung Quốc. Cũng các hãng của Trung Quốc đang nắm giữ chìa khóa của ngành sản xuất bình điện.
Quá thành công trong mục đích chinh phục thị trường thế giới
Thế nhưng, theo giáo sư Grosser, việc Liên Âu mở điều tra xem xe điện của Trung Quốc bán vào châu Âu có được trợ giá hay không chẳng lợi ích gì nhiều, vì trên thực tế các cập đoàn xe hơi của châu Âu, mà đứng đầu là Đức, cũng được các chính phủ trợ giúp rất nhiều. Thế còn nhìn từ phía Bắc Kinh, hai chữ « trợ giá »không có ý nghĩa gì nhiều, như giải thích của Jean François di Meglio: Trung Quốc chi tiền cho các tập đoàn nhà nước và doanh nghiệp với dụng ý chinh phục thị trường quốc tế ngoài Hoa Lục
« Lực đẩy chính của một nền kinh tế tự do là khi một đồng vốn bỏ ra chúng ta phải thu về được bao nhiêu lãi. Đối với Trung Quốc trong một thời gian dài, các doanh nghiệp không phải lo huy động vốn, vốn để sản xuất coi như được cho không bởi vì do Nhà nước cung cấp. Các công ty quốc doanh không bắt buộc phải làm ăn có lời. Chỉ cần những công ty đó chinh phục được thêm thị phần ở hải ngoại là đủ. Nếu nhìn vấn đề dưới góc độ này thì phải nói Trung Quốc đã quá thành công, tức là chi tiền ra để thu phục thị trường quốc tế ».
Vỡ mộng với Trung Quốc
Song trong bối cảnh kinh tế và địa chính trị phức tạp hiện tại, Trung Quốc cần đến Liên Âu. Điều này giải thích cho một số cử chỉ hòa hoãn của Bắc Kinh trước thượng đỉnh song phương. Chẳng hạn như Trung Quốc miễn visa nhập cảnh cho công dân 5 nước trong Liên Hiệp Châu Âu, hay nới lỏng các biện pháp hà hiếp Litva bởi Vilnius bênh vực Đài Loan…. Có điều Liên Hiệp Châu Âu nay « không còn ngây thơ » trước những lời đường mật của Bắc Kinh
Giáo sư Grosser, trường Khoa học Chính Trị Paris, phân tích :
« Đúng là đã có lúc Liên Âu ngây thơ, nhưng phải nói là vào thời điểm 2008/2009, khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động mạnh đến nhiều quốc gia tại châu lục này và nhất là đến đầu thập niên 2010, nên nhiều thành viên của Liên Hiệp Châu Âu đã cả tin vào Trung Quốc. Chủ yếu là các nước Nam Âu và Đông Âu. Hơn một chục năm sau, chính những nước này thất vọng khi thấy thành quả không nhiều, điển hình là Hy Lạp với các dự án đầu tư khai thác cảng biển… Uy tín của Trung Quốc đối với công luận châu Âu giảm dần từ một vài năm trở lại đây. Để rồi các nước vùng Baltic chẳng hạn bắt đầu lên tiếng ủng hộ Đài Loan và nhiều thành viên khác trong Liên Âu thì thận trọng hơn với Bắc Kinh. Hợp tác giữa Trung Quốc với 17 nước ở Trung và Đông Âu, nhóm mang tên 17+1, không đem lại những thành quả như mong đợi ».
Tuy nhiên, trước mắt, Trung Quốc hài lòng với một cán cân thương mại« bất cân đối »và bất lợi cho châu Âu. Như giám đốc Asie Centre, ông Di Meglio nhận định, trong mọi trường hợp Liên Hiệp Châu Âu vẫn ở thế yếu khi đối thoại với Bắc Kinh.
Tue, 12 Dec 2023 - 150 - Cuộc chạy đua săn lùng dầu hỏa
Nhiều người vẫn kỳ vọng COP28 là hội nghị khí hậu quốc tế đầu tiên bàn về « tương lai năng lượng hóa thạch ». Trong năm 2022-2023, các đại tập đoàn dầu khí trên thế giới tiếp tục đầu tư hàng chục tỷ đô la để được khai thác « vàng đen » tại hơn 50 quốc gia. Venezuela muốn chiếm đoạt vùng Essequibo của Guyana bởi đây là một mỏ dầu nhiều tiềm năng và Guyana có thể trở thành một Koweit ở Nam Mỹ.
Tháng 11/2023 Reclaim Finance, một tổ chức phi chính phủ chuyên quan sát về tác động của các hoạt động tài chính đối với môi trường và nhất là đời sống của con người - trụ sở tại Paris, ghi nhận vẫn không thiếu các dự án mới khai thác dầu khí trên thế giới.
Trong hai năm trở lại đây, tại 58 quốc gia, 200 tập đoàn tư nhân và của nhà nước đã khởi động 437 dự án đầu tư trong ngành dầu khí. Tổng đầu tư lên tới 528 tỷ đô la chỉ riêng cho các khâu « khai thác và sản xuất ». Điểm đến của số tiền khổng lồ đó tập trung vào Qatar, Ả Rập Xê Út, Brazil, Mỹ và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất. Riêng nước Nga, không nhận được nhiều đầu tư như các đối tác vừa nêu nhưng lại là nơi chiếm được nhiều dự án hơn cả, đứng trước Na Uy.
Ai tài trợ cho 437 dự án đầu tư mới vừa nêu ? Theo Reclaim Finance, tập đoàn quốc gia Ả Rập Xê Út Aramco dẫn đầu, kế tời là ExxonMobil của Mỹ. Đứng thứ ba là Petrobras của Brazil.
Cũng trong giai đoạn 2022-2023 do tác động của lạm phát đè nặng lên tăng trưởng của Hoa Kỳ, tổng thống Joe Biden, người từng đắc cử nhờ cam kết sẽ « không có thêm một giếng dầu nào khác trên đất Mỹ », đã cho phép tập đoàn ConocoPhillips khởi động một dự án « khổng lồ » tại Alaska. Tập đoàn dầu khí của Anh BP được phép thăm dò và khai thác ngoài khơi vùng Newfoundland của Canada mặc dù đấy là một vùng biển thuộc bảo tồn.
Tại Luân Đôn, thủ tướng Anh Rishi Sunak tháng 7/2023 cấp giấy phép cho ít nhất 100 dự án ở Biển Bắc. Pháp cũng đang lao vào cuộc săn lùng dầu hỏa : tháng trước, tập đoàn Canada Vermilion vừa được phép khoan thêm 8 giếng dầu ở vùng Gironde, miền tây nam nước Pháp. Paris, từ 2017 đã thông qua một đạo luận dự trừ ngừng sản xuất dầu hỏa và khí đốt kể từ năm 2040.
Nước Nga của tổng thống Vladimir Putin hoàn toàn không có lý do gì để ngừng lại các dự án bạc tỷ với các đối tác Trung Quốc và kể cả châu Âu -bất chấp lệnh trừng phạt phương Tây ban hành từ khi Matxcơva xâm chiếm Ukraina. Các vương quốc dầu hỏa ở Trung Đông, các nhà sản xuất ở châu Phi vẫn tiếp tục đầu tư vào công nghiệp dầu khí.
Vương quốc dầu mỏ của Nam Mỹ và nguy cơ xung đột vũ trang
Không ồn ào như đại đa số các nhà sản xuất hay các quốc gia xuất khẩu dầu hỏa lâu đời của thế giới, tại Nam Mỹ, hai nước nhỏ là Surinam và Guyana sắp nổi lên như những « mỏ dầu » của thế giới. Tập đoàn dầu khí Pháp, TotalEnergies dự kiến dầu tư 9 tỷ đô la thăm dò lô 58 ngoài khơi Surinam với tiềm năng 200.000 thùng dầu/ngày.
Từng là thuộc địa cũ của Hà Lan, với chừng 600.000 dân cư và là một trong những quốc gia nghèo nhất trong khu vực, Surinam kỳ vọng nhiều vào các nguồn tài nguyên ngoài khơi và đang mở rộng cửa đón tác tập đoàn của Mỹ, Trung Quốc và của châu Âu.
Về phần Guyana, quốc gia duy nhất thuộc Khối Thịnh Vượng Chung của Anh Quốc ở Nam Mỹ trong hai năm vừa qua, GDP đã được nhân lên gấp 3 lần nhờ có dầu hỏa. Viễn cảnh dầu hỏa của Guyana bảo đảm 1 % nhu cầu tiên thụ cho toàn thế giới vào ngưỡng 2025 đã làm dấy lên lòng tham của Venezuela sát cạnh. Guyana có đường biên giới chung với Brazil, Surinam và Venezuela cũng chính con sông Essequibo được coi là đường biên giới tự nhiên giữa thuộc địa cũ của Anh Quốc với một mỏ dầu của thế giới tại Mỹ Latinh là Venezuela.
Vào lúc Caracas không phát huy được ngành công nghiệp dầu khí để phát triển thì trong vỏn vẹn 2 năm, GDP của Guyana được nhân lên gấp ba lần nhờ phát hiện những mỏ dầu ở ngoài khơi với trữ lượng ước tính tương đương với của Koweit hay của Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, nguồn sản xuất dầu hỏa lớn thứ 7 hiện nay trên thế giới.
Ngày 03/12/2023 Caracas tổ chức trưng cầu dân ý khẳng định chủ quyền với vùng Essequibo, trải rộng trên 160.000 km vuông, tương đương với 2/3 lãnh thổ của Guyana. Hơn 95 % những người được hỏi xem Essequibo thuộc về Venezuela. Kết quả đó làm dấy lên lo ngại Caracas viện cớ để lấn chiếm Guyana, tước đoạt các nguồn tài nguyên tại Essequibo.
Đây là một vùng đất với nhiều mỏ vàng, mỏ kim cường, đồng hay beauxite…. và dầu hỏa.
Đầu tháng 11/2023 Chevron chi ra 53 tỷ đô la mua lại Hess, cũng một tập đoàn năng lượng của Hoa Kỳ để được quyền đồng quản lý các mỏ dầu ở Guyana, bởi đây là những mỏ « vàng đen dễ khai thác ». Theo tạp chí kinh tế Capital Economics, ngay cả trong trường hợp giá dầu dao động từ 25 đến 35 đô la một thùng, Chevron cũng đã có lãi.
Trên nguyên tắc trong hai năm nữa, sản xuất dầu thô của Guyana sẽ cao hơn so với của Anh Quốc hiện nay và kể cả của Venezuela. Đương nhiên trong những điều kiện đó chính quyền Guyana đang đàm phán lại các hợp đồng với các đại tập đoàn của Mỹ và cả với CNOOC của Trung Quốc.
Vấn đề gây lo ngại ở đây như giới trong ngành ghi nhận là lòng tham của Caracas, mà ai cũng biết, hai điểm tựa truyền thống của Venezuela là Trung Quốc và Nga. Bắc Kinh là chủ nợ lớn nhất của chế độ Maduro và thậm chí Venezuela thanh toán trực tiếp cho chủ nợ bằng dầu hỏa. Còn Matxcơva là nguồn cung cấp đến 75 % vũ khí cho Caracas và các hãng dầu của Nga có ảnh hưởng rất lớn tại quốc gia châu Mỹ Latinh này.
Lợi nhuận và sức khỏe con người
Trong cuộc chạy đua săn lùng dầu hỏa đó làm thế nào để các nhà khoa học thuyết phục được gần 200 phái đoàn tham dự hội nghị khí hậu COP28 ở Dubai từ bỏ năng lượng hóa thạch ?
Một nghiên cứu được tạp chí khoa học British Medical Journalcông bố trước ngày COP28 khai mạc, năng lượng hóa thạch là nguyên nhân gây tử vong cho hơn 5 triệu người trên thế giới. Tất cả là nạn nhân của hiện tượng ô nhiễm không khí, bụi và do tác hại của khí ozone.
Trong cương vị chủ nhà COP28 Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất dự trù đầu tư thêm 150 tỷ đô la từ nay đến 2027 để nâng cao« khả năng cung cấp về dầu khí »quốc gia.
Một tín hiệu đáng lo ngại khác được các tổ chức bảo vệ môi trường và sức khỏe con người như Reclaim Finance báo động là« ngay cả các tập đoàn năng lượng chủ yếu là của châu Âu như Shell, BP hay TotalEnergies đang thu hẹp lại những mục tiêu chống biến đổi khí hậu và những tham vọng phát triển năng lượng sạch ». Tập đoàn Ý ENI mua lại Neptune Energy của Na Uy để tiếp tục đầu tư ở Bắc Âu. TotalEnergies của Pháp không che giấu là sẽ tiếp tục đầu tư vào những giếng dầu mới, tối thiểu là đến ngưỡng 2030. Điều đó không cấm cản lãnh đạo TotalEnergies thông báo những tham vọng và nỗ lực làm sạch môi trường.
Chủ tịch tổng giám đốc tập đoàn dầu hỏa Pháp Patrick Pouyanné phát biểu nhân một hội nghị quốc tế : « Chúng tôi sẽ đầu tư 40 tỷ đô la trong sáu năm sắp tới để đẩy mạnh năng lượng sạch, để giảm bớt lượng phát khi thải carbon trong các hoạt động của tập đoàn TotalEnergies. 40 tỷ đô la đó tương đương với từ 40 đến 50 % tổng đầu tư của tập đoàn với mục tiêu phát huy những công nghệ mới, cắt giảm CO2 và đóng góp cho một mô hình năng lượng mới ».
Giáo sư đại học Paris Dauphine, chuyên về dầu khí Philippe Chalmin lưu ý trong một bảng xếp hạng gần đây về thiện chí của các hãng dầu khí hạn chế phát thải carbon, ENI của Ý đứng đầu, kế tới là TotalEnergies.
Trái lại từ COP21 ở Paris đến nay chưa bao giờ các đại tập đoàn của Mỹ cam kết về bất kỳ điều gì về một chiến lược chuyển đổi năng lượng. Cũng giáo sư Chalmin nhắc lại rằng, sở dĩ mà các hãng dầu khí tiếp tục đầu tư vào các dự án mới, bởi nhu cầu của thế giới còn tiếp tục tăng thêm :
« Theo tôi Trung Quốc đang đặt ra nhiều vấn đề hơn rất nhiều so với các nước sản xuất dầu hỏa. Nói một cách thực công bằng, thì sở dĩ mà các nước sản xuất và xuất khẩu dầu hỏa tiếp tục khai thác công nghiệp này là do nhu cầu của thế giới vẫn còn tiếp tục tăng thêm. Năm tới, mỗi ngày trung bình thế giới cần thiêu thụ khoảng từ 1,5 đến 2 triệu thùng dầu ».
Trong báo cáo giữa tháng 11/2023 Cơ Quan Năng Lượng Quốc Tế AIE dự phóng nhu cầu tiêu thụ vào năm tới trên toàn cầu sẽ còn tiếp tục tăng mạnh và có thể là sẽ « phá kỷ lục ». Chỉ riêng trong tháng 9 vừa qua, Trung Quốc tiêu thụ hơn 17 triệu thùng dầu/ngày. Phải đợi đến khoảng 2030 nhu cầu chung của nhân loại mới tăng chậm lại.
Marc Antoine Eyl Mazzega đặc trách về khoa năng lượng tại Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp - IFRI giải thích về thách thức rất lớn đặt ra cho các nền kinh tế đang phát triển và đây không phải là lúc để những nước như Ấn Độ hay Brazil, Trung Quốc chấp nhận giảm tiêu thụ về năng lượng. Những quốc gia này vẫn nghiện dầu hỏa :
« Tiêu thụ dầu hỏa tại các nước phương Tây giàu có, có chiều hướng giảm đi, tuy là giảm chậm hơn nhiều so với mong đợi từ phía các nhà khoa học. Vấn đề đặt ra là ở những nơi khác trên thế giới, nhu cầu tiêu thụ dầu hỏa đã tăng rất mạnh. Đành là có những giải pháp khác nhưng tất cả đều quá đắt và ngoài tầm tay của các nền kinh tế đang phát triển. Tăng trưởng về dân số đòi hỏi tăng trưởng kinh tế phải đi theo và đây là một áp lực vô cùng to lớn đối với những nền kinh tế đang trỗi dậy. Tôi muốn nói đến trường hợp của Ấn Độ, của nhiều nước ở khu vực Đông Nam Á… Trong hoàn cảnh đó, dầu hỏa vẫn chiếm một vị trí trung tâm chi dù chúng ta đã bắt đầu nói đến đỉnh điểm vào khoảng 2030, kể từ đó tiêu thụ dầu trên thế giới sẽ bắt đầu tăng chậm lại trước khi sụt giảm ».
Khó để phủ nhận những kết quả nghiên cứu khoa học báo động về nguy cơ năng lượng hóa thạch đè nặng lên sức khỏe con người. Khó để bác bỏ những kết luận dầu hỏa, khí đốt và than đá thải 80 % carbon là hâm nóng trái đất. Chấp nhận những kết quả nghiên cứu đó là một chuyện, nhưng từ bỏ năng lượng hóa thạch để đi tìm những « giải pháp thay thế » là một chuyện khác.
Trước khi COP28 hạ màn, Ả Rập Xê Út, hôm 05/12/2023 báo trước sẽ « tuyệt đối » chống lại việc khai tử năng lượng hóa thạch. Lập trường này được Nga và Trung Quốc tán đồng.
Tue, 05 Dec 2023 - 149 - Dùng đô la thay nội tệ peso: Thách thức nào cho Achentina ?
Javier Milei đắc cử vẻ vang tại Achentina nhờ hứa hẹn khai tử đồng tiền quốc gia -đồng peso và thay vào đó bằng đô la Mỹ : Liều thuốc đắng hòng mưu cầu ổn định cho nền kinh tế lớn thứ ba tại châu Mỹ Latinh. Bài toán này có sức khả thi hay không khi mà Buenos Aires từ tháng 4/2023 đã từng bước từ bỏ đô la để thanh toán nợ và các bạn hàng bằng nhân dân tệ của Trung Quốc ?
Vài ngày trước bầu cử Achentina, tổng thống mãn nhiệm Alberto Fernandez loan báo triển hạn thỏa thuận hoán đổi tiền tệ với Trung Quốc, tổng trị giá 6,5 tỷ đô la. Thỏa thuận này cho phép « bảo đảm khả năng thanh toán » của Buenos Aires, vào lúc tỉ giá hối đoái của đồng tiền quốc gia -peso trồi sụt thất thường, lạm phát lên tới 140%.
Hôm 20/11/2023, trên 55% cử tri tín nhiệm, Javier Milei một chuyên gia kinh tế, 53 tuổi được bầu lên nhờ những cam kết đoạn tuyệt với di sản cồng kềnh của những đời tổng thống tiền nhiệm, « đập đổ tất cả để xây dựng lại từ đầu », « không chơi với các chế độ Cộng Sản » như Trung Quốc hay « thiên Cộng » như Brazil, cả hai cùng là những đối tác thương mại hàng đầu của Achentina. Đáng chú ý hơn cả là hứa hẹn dùng đô la Mỹ thay cho đồng tiền quốc gia.
Dẹp bỏ đồng peso để cột chặt đồng tiền Achentina vào với đô la Mỹ có giúp Buenos Aires bài trừ tận gốc rễ tình trạng lạm phát « phi mã » triền miên hay không ? Đâu là những trở ngại cụ thể trên con đường của ông Milei để đạt đến mục tiêu đó hòng « ổn định » một cỗ máy kinh tế với gần 500 tỷ đô la Mỹ GDP này và đâu là cái giá mà dân 46 triệu dân Achentina sẽ phải gánh chịu ?
Trước Achentina ba nước ở châu Mỹ Latinh đã từ bỏ đồng nội tệ để sử dụng đô la Hoa Kỳ với những kết quả được cho là khá « thành công ». Đó là trường hợp của ba nền kinh tế tương đối nhỏ, Panama, Ecuador và Salvador.
Đô la hóa kinh tế Achentina
Ngày 10/12/2023 Javier Milei tuyên thệ nhậm chức trong bối cảnh 40% dân số sống dưới ngưỡng nghèo khó, vật giá « leo thang từng ngày », lạm phát dao động ở ngưỡng 140%, đồng tiền quốc gia peso liên tục bị phá giá và không còn một chút uy tín nào đối với cả người dân trong nước lẫn trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Với 114 tỷ đô la nợ nước ngoài, chủ yếu là Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Achentina là nền kinh tế đang trỗi dậy mang nợ nhiều nhất trên thế giới.
Trong những điều kiện đó, Javier Milei chủ trương đã được bầu lên chức vụ tối cao với hứa hẹn áp dụng một « liệu pháp sốc » « tái thiết » Achentina tìm lại hào quang đã mất cho Buenos Aires. Chiếc đũa thần cho phép mang lại phép lạ đó là « đồng đô la Mỹ ».
Trên đài RFI tiếng Pháp, giáo sư kinh tế Juan Carluccio đại học Surrey – miền nam Anh Quốc - trước hết giải thích tổng thống tân cử Achentina muốn dùng đồng đô la để khống chế lạm phát trước hết là một ý đồ chính trị :
« Ý tưởng của ông Javier Milei là khi mà Achentina dùng đồng đô la thì các chính trị gia sẽ không còn có thể tùy tiện in tiền, không thể tài trợ một cách bừa bãi cho các chương trình công cộng. Qua đó dẹp được lạm phát. Điều đó chỉ đúng một phần, bởi vì chúng ta có thể giải quyết lạm phát bằng những cách khác mà không nhất thiết phải khai tử đồng peso».
Nhưng tính toán đó chỉ đúng có một phần như giáo sư Carluccio vừa ghi nhận khi mà mức « cung » không đáp ứng được với nhu cầu của người dân và nhất là các chính phủ liên tiếp « tùy tiện in tiền » để tài trợ các chương trình xã hội, hay đầu tư công cộng. Riêng trong trường hợp của Achentina vấn đề đặt ra là lạm phát đã kéo dài gần một nửa thế kỷ và chủ yếu xuất phát từ hai yếu tố.
Giáo sư Carluccio : « Lạm phát do khối lượng đồng peso của Achentina lưu hành quá lớn, bởi vì chính phủ tùy tiện in tiền để đài thọ các chương trình chi tiêu công cộng. Trong khi đó thì cỗ máy sản xuất, hàng hóa ở Achentina lại không tăng lên. Thế rồi từ mấy chục năm nay người dân thường xuyên phải đối mặt với lạm phát cho nên chỉ cần một chút biến động là cũng đủ khiến dân chúng đua nhau tích trữ hàng hóa, lương thực … vật giá qua đó lại bị đẩy lên cao ».
Hiệu quả và tính khả thi ?
Vậy dùng đô la thay cho peso có phải là liệu pháp tốt nhất để khống chế lạm phát và nhất là đem lại ổn định cho kinh tế nước này hay không ? Giới chuyên gia đồng loạt trả lời không vì nhiều lý do.
Thứ nhất lạm phát tại Achentina từ đầu năm đến nay liên tục vượt ngưỡng 100% và thậm chí có thể đụng ngưỡng 180 -190% từ nay đến 2023. Cùng lúc Buenos Aires đang mang nợ chồng chất, ngân sách nhà nước thâm hụt và toàn bộ gánh nặng đè lên Ngân Hàng Trung Ương, bởi chính phủ không còn chút uy tín nào để có thể đi vay trên thị trường. Kinh tế đình đốn - IMF dự báo GDP giảm 3,5% trong năm 2023 - làm cạn nguồn thuế doanh nghiệp và tư nhân, thuế TVA trong công quỹ nhà nước. Giải pháp còn lại để tránh phải tuyên bố phá sản là Achentina vừa phải in tiền, vừa phải cầu viện thêm các chủ nợ nước ngoài, như là Trung Quốc hay Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF.
Lạm phát qua đó tiếp tục tăng thêm, đồng nội tệ peso tiếp tục bị phá giá.
Kinh tế gia Roberta Fortes, thuộc hãng bảo hiểm của Pháp Allianz ghi nhận : dùng đô la thay đồng peso sẽ « chỉ tước đi thẩm quyền của chính phủ để tài trợ thâm hụt ngân sách nhưng sẽ không làm hạ nhiệt tình hình giá cả trên thị trường » nhất là khi mà lạm phát ở Achentina do năng lượng, nguyên và nhiên liệu tăng cao và ngoài nông phẩm thì Achentina không có gì nhiều để xuất khẩu.
Giáo sư Carluccio đại học Surrey, Anh Quốc giải thích rõ hơn :
« Thực ra như tất cả mọi quốc gia Achentina có hai cách để thu vào đồng đô la : một là xuất khẩu hàng hóa cho thế giới. Hóa đơn thanh toán bằng đô la và đồng tiền Mỹ sẽ được giữ ở Ngân Hàng Trung Ương. Dự trữ bằng đô la càng lớn, thì kinh tế và tài chính của Achentina càng được ổn định. Khả năng thứ hai để thu vào đô la là Achentina phải là điểm đầu tư hấp dẫn để thu hút chú ý của giới tư bản quốc tế. Nhưng từ nhiều năm qua kinh tế đình đốn, lạm phát phi mã. Không mấy ai dám mạo hiểm bỏ vốn đầu tư vào Achentina ».
Theo giáo sư Carlos Quenan, đại học Paris Sorbonne Nouvelle nêu lên một khó khăn khác : dự trữ ngoại tệ của Ngân Hàng Trung Ương gần như không có. Hơn nữa một khi sử dụng đô la, chính phủ Achentina cũng sẽ « phải tuân thủ của chính sách tiền tệ Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ » mà trong hiện tại thì « chu kỳ kinh tế của Achentina không đồng điệu với của nước Mỹ » : Vậy làm thế nào để tính tới khả năng « đem lại ổn định hóa » cho kinh tế Achentina ?
Dân chúng sẽ lại phải hy sinh thêm
Trên đài truyền hình France24 kinh tế gia Alexandre Kateb sáng lập viên trung tâm tư vấn The Multipolarity Report, nhấn mạnh đến tác động ngắn hạn đối với hàng triệu người dân Achentina khi mà đồng peso càng mất giá so với đô la :
« Từ bỏ đồng tiền quốc gia không bao giờ là một ý tưởng hay cả, bởi vì qua đó người ta mất đi quyền tự chủ về mặt tiền tệ, kinh tế. Hơn nữa gắn chặt kinh tế Achentina vào với đồng đô la Mỹ, mà Hoa Kỳ là một nền kinh tế rất mạnh, thì đòi hỏi Achentina cũng phải có những nền tảng vững chắc. Hiện thời đó là điều không tưởng. Do vậy, bỏ peso để dùng đô la, không mang lại lợi lộc gì cho Achentina - có chăng là chỉ riêng đối với một số nhà xuất khẩu nguyên liệu bởi vì dùng đô la thì họ không bị động vì những biến đổi của tỷ giá hối đoái giữa đô la và peso. Nhưng trong ngắn hạn cả tầng lớp trung lưu tại Achentina sẽ bị nghèo đi khi phải chuyển sang dùng đô la bởi vì đồng peso trong giai đoạn chuyển tiếp sẽ còn bị phá giá mạnh hơn nữa ».
Một đồng peso mất giá thêm nữa sẽ càng là một gánh nặng khi cần Achentina phải thanh toán hóa đơn bằng đô la Mỹ cho các nhà cung cấp dầu khí, nguyên và nhiên liệu… đó cũng là một kênh dẫn đến lạm phát tại quốc gia châu Mỹ Latinh này.
Achentina trước bài toán khó Nhân dân tệ Trung Quốc và đô la Mỹ
Đành rằng giới quan sát đồng loạt chí trích chủ trương thay thế nội tệ bằng đô la Mỹ, song một thực tế không thể chối cãi là dân Achentina từ thập niên 1930/40 đã rất « gắn bó »với đô la. Theo thẩm đỉnh gần đây nhất của nhà kinh tế học Nicolas Gadano, 20% đô la Mỹ ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ do người dân Achentina nắm giữ.
Cuối cùng kế hoạch « đô la hóa »kinh tế Achentina của ông Javier Milei đang đặt ra một vấn đề lớn về thương mại với nhà cung cấp quan trọng nhất của Buenos Aires là Trung Quốc.
Tổng thống tân cử Achentina cho biết sẽ hủy quyết định của người tiền nhiệm về việc gia nhập khối các nền kinh tế đang trỗi dậy, hiện bao gồm 5 thành viên là Brazil, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Phi. Trên nguyên tắc kể từ ngày 01/01/2024 Achentina là một trong 6 thành viên mới trong đại gia đình này.
Javier Milei với chủ trương gắn chặt kinh tế Achentina vào đồng đô la Mỹ cũng là một vố đau đối với Bắc Kinh. Tháng 2/2022 để đánh dấu 50 năm quan hệ song phương, lãnh đạo Trung Quốc và Achentina ký thỏa thuận ghi nhớ, Buenos Aires là một thành viên mới trong số các quốc gia tham gia dự án Con Đường Tơ Lụa Thế Kỷ 21, một sáng kiến của ông Tập Cận Bình. Lập tức Trung Quốc đầu tư gần 25 tỷ đô la vào Achentina. Đến tháng 4/2023 Buenos Aires rầm rộ tuyên bố sử dụng đồng tiền Trung Quốc thay thế một phần cho đô la trong các khoản giao dịch quốc tế, để giảm bớt lệ thuộc vào Mỹ và nhất là vào đồng tiền của Mỹ.
Trong suốt thời gian vận động tranh cử ứng viên Milei đã thẳng thừng tuyên bố « không chơi với Cộng Sản »và lãnh đạo tương lai Achentina từng xem chính quyền Trung Quốc là một chế độ của những « kẻ sát nhân ». Ông cũng đã chỉ trích chính quyền của tổng thống Alberto Fernandez « lén lút »vay Trung Quốc 8 tỷ đô la, ký với Bắc Kinh tổng cộng « 9 hợp đồng mờ ám ».
Một cộng tác viên đắc lực của ông Milei và cũng là người được cho là có triển vọng giữ chức ngoại trưởng Achentina trong vài tuần lễ nữa, bà Diana Mondino vào tuần trước đã xác nhận Buenos Aires « không có ý định tham gia khối BRICS »và dự trù « ngừng có những liên hệ »với hai chế độ ở Bắc Kinh và Brasilia.
Có điều như giới phân tích ghi nhận, sau giai đoạn tranh cử, giờ đây ông Milei phải đối mặt với thực tế và rất có thể là ông không có nhiều lựa chọn.
Buenos Aires đang cần gấp 3 tỷ đô la để thanh toán nợ đáo hạn trong năm 2024-2025, cần trả 44 tỷ đô la nợ đã vay của IMF từ 2018. Không chắc là tổng thống tân cử Javier Milei dám xóa bỏ những hợp đồng mà người tiền nhiệm đã ký với các đối tác Trung Quốc liên quan đến các dự án xây dựng nhà máy thủy điện, nhà máy điện hạt nhân, cầu đường, các trung tâm phát triển năng lượng gió … Đó là những dự án trên giấy tờ bảo đảm từ 2 đến 3 ngàn công việc làm cho người dân Achentina.
Tue, 28 Nov 2023 - 148 - Nguy cơ đối đầu Mỹ-Trung « quyết liệt hơn »
Mỹ-Trung đã đạt được nhiều « tiến bộ cụ thể » sau thượng đỉnh San Francisco, nhưng đấy chỉ là vỏ bọc bề ngoài. Nhà Trắng « bắt buộc phải cứng giọng với Bắc Kinh » để kiếm phiếu trước bầu cử 2024. Trung Quốc đấu dịu vì tăng trưởng còn phụ thuộc vào thị trường và công nghệ Mỹ. Bắc Kinh tiếp tục « mài gươm cho sắc » để chuẩn bị những bước tiếp theo. Giới chuyên gia đồng loạt nhận xét như trên sau cuộc họp giữa hai phái đoàn Mỹ-Trung hôm 15/11/2023.
Woodside, gần thành phố San Francisco, bang California, vào tuần trước trở thành tâm điểm thời sự quốc tế với thượng đỉnh Joe Biden-Tập Cận Bình. Sau bốn giờ họp, đôi bên ra về với nhiều « tiến bộ cụ thể ». Tổng thống Biden nêu bật hai thành công lớn : một là Bắc Kinh đồng ý hợp tác chống « sản xuất và buôn ma túy tổng hợp », trong đó có Fentanyl, được gọi là « ma túy cho dân nghèo ». Năm 2022, hơn 100.000 công dân Mỹ tử vong vì sử dụng Fentanyl quá liều. Fentanyl tàn phá nhiều gia đình Mỹ, đè nặng lên xã hội và kinh tế Hoa Kỳ. Trung Quốc bị coi « công xưởng sản xuất Fentanyl của thế giới ». Do vậy, cam kết của ông Tập với tổng thống Biden về hồ sơ này giúp Nhà Trắng ghi điểm với công luận Mỹ.
Thành quả thứ nhì đạt được sau thượng đỉnh San Francisco liên quan đến việc Mỹ và Trung Quốc đồng ý nối lại « đối thoại quân sự », vốn bị gián đoạn từ tháng 08/2022. Marc Julienne, Viện Quan Hệ Quốc Tế IFRI của Pháp, lưu ý, vào lúc các hoạt « dồn dập chung quanh Đài Loan và ở Biển Đông, rủi ro xảy ra sự cố, tai nạn, hiểu nhầm càng lớn », cho nên việc đối thoại trực tiếp để nhanh chóng làm hạ nhiệt tình hình khi cần là điểm hết sức quan trọng đối với cả Bắc Kinh lẫn Washington. Mọi yếu tố cho phép giảm thiểu rủi ro xảy ra xung đột vũ trang giữa hai siêu cường kinh tế và quân sự trên thế giới, góp phần trấn an các doanh nghiệp Mỹ và các đồng minh của Washington tại Châu Á-Thái Bình Dương.
Đôi bên cùng đấu dịu
Về phía Trung Quốc, trước khi chính thức ngồi vào bàn đàm phán với tổng thống Biden, các cố vấn của chủ tịch Tập Cận Bình đã dành nhiều thời gian để chuẩn bị cuộc tiếp xúc của lãnh đạo Bắc Kinh với 400 công dân Hoa Kỳ, mà phần lớn là chủ nhân các tập đoàn hàng đầu như Tesla, Apple, Pfizer hay của các quỹ đầu tư lớn nhất nước Mỹ như BlackRock, BlackStone… Thêm một lý do khiến lãnh đạo Bắc Kinh hài lòng : chính quyền Biden dịu giọng trong chủ trương « tách rời » khỏi nền kinh tế Trung Quốc.
Trên đài phát thanh Pháp France Culture, kinh tế gia Agathe Demarais, thuộc trung tâm nghiên cứu châu Âu về quan hệ quốc tế (European Council on Foreign Relations), ghi nhận :
« Mỹ không còn đả động đến việc tách rời khỏi kinh tế Trung Quốc nữa mà chỉ nói đến việc cần giảm thiểu rủi ro, tức là giảm mức độ lệ thuộc vào quốc gia châu Á này. Một cách gián tiếp, Washington báo trước là sẽ không ban hành các biện pháp đè nặng lên tăng trưởng của Trung Quốc, nhưng đồng thời Hoa Kỳ cũng thực sự quan ngại trước việc một số công nghệ của Mỹ giúp Bắc Kinh phát triển về mặt quân sự ».
Một tuần lễ sau thượng đỉnh Mỹ-Trung 2023, vẫn chưa thấy chính quyền Biden thông báo ngừng hay nới lỏng các biện pháp kiểm soát xuất nhập khẩu trang thiết bị nhậy cảm với Trung Quốc, trong lúc đây có thể là một trong những điểm quan trọng đối với chủ tịch họ Tập, theo quan điểm của chuyên gia Valérie Niquet, Quỹ Nghiên Cứu Chiến Lược Pháp trong một chương trình phát thanh trên đài France Inter :
« Theo tôi, ông Tập Cận Bình thực sự cần đạt được một chút gì đó với Mỹ, đặc biệt là trên vấn đề kinh tế chẳng hạn như là về việc mở cửa thị trường hay chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực bán dẫn. Những biện pháp trừng phạt Trung Quốc, được ban hành từ thời tổng thống Trump và tiếp tục được duy trì dưới chính quyền Biden, cho thấy một cách quá rõ rệt là tăng trưởng của Trung Quốc vẫn còn phụ thuộc vào khả năng tiếp cận với công nghệ của Hoa Kỳ, vào thị trường các nước phát triển. Bắc Kinh có thể mở rộng ảnh hưởng với Nga, châu Phi hay Trung Âu nhưng tất cả những thị trường đó không thể lấp vào chỗ trống của Mỹ hay Liên Hiệp Châu Âu (...)
Về chuyển giao công nghệ, Trung Quốc chưa thể tự chủ. Nhưng đương nhiên là Bắc Kinh cố gắng che đậy nhược điểm đó bằng những tuyên bố mang đầy tính tự hào dân tộc về khả năng phát triển những công nghệ của riêng mình để không phụ thuộc vào Mỹ … Nhưng thực tế cho thấy là mục tiêu đó còn xa vời ».
Rối rắm trong nội bộ Trung Quốc
Phải chăng điều này giải thích cho thái độ « mềm mỏng » hơn của lãnh đạo Trung Quốc tại thượng đỉnh San Francisco so với cuộc họp Biden-Tập Cận Bình ở Bali-Indonesia đúng một năm trước đây ? Cũng Marc Julienne, ghi nhận mùa thu 2023 ông Tập Cận Bình bắt tay Joe Biden vài tháng sau khi được chỉ định tiếp tục điều hành đất nước thêm một nhiệm kỳ 5 năm, công luận trong nước và quốc tế kỳ vọng nhiều vào đà bật dậy của kinh tế Trung Quốc sau 3 năm đóng cửa chống dịch. Nhưng một năm sau, « tình hình » nội bộ Trung Quốc có chiều hướng xấu đi : Ngay cả chính trị Trung Quốc cũng có những dấu hiệu bất an (ngoại trưởng và bộ trưởng Quốc Phòng Trung Quốc hai thành viên nặng ký từng được chính ông Tập Cận Bình tín nhiệm đã bị cách chức).
Về kinh tế, khủng hoảng địa ốc lan rộng, thất nghiệp gia tăng trong lúc xuất khẩu bị đe dọa vì chiến tranh Ukraina và xung đột ở Trung-Cận Đông. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, vốn là một trong cột trụ của mô hình tăng trưởng của Trung Quốc từ 4 thập niên qua, nay cũng đang bị « chao đảo », cho nên, như ghi nhận của Mathieu Duchâtel, chủ nhiệm chương trình châu Á thuộc viện nghiên cứu Institut Montaigne - Paris, một trong những trọng tâm của ông Tập Cận Bình trong chuyến đi Mỹ vừa qua là nhắm trấn an các doanh nghiệp của Mỹ, quốc tế và kể cả của Đài Loan :
« Theo các số liệu gần đây nhất, năm 2020 Hoa Lục thu hút 80 % đầu tư của Đài Loan ở hải ngoại. Tỷ lệ này rơi xuống còn 13,6 % năm 2022. Để so sánh tổng đầu tư của Đài Loan vào các nước trong khối Đông Nam Á đã cao hơn so với đầu tư vào Trung Quốc. Đây là một bước ngoặt hết sức quan trọng đối với Trung Quốc vào lúc các tập đoàn Đài Loan, như là Foxconn chẳng hạn, đã đóng góp rất nhiều vào tiến trình phát triển của Trung Quốc. Cho đến hiện tại, Foxconn vẫn đứng đầu trong số các hãng xưởng bảo đảm việc làm cho người lao động ở Hoa Lục. Rõ ràng là cuộc chiến thương mại khai mào dưới chính quyền Trump hồi 2018 đang dẫn đến những hậu quả lớn hơn gấp bội (...)
Rất rõ ràng là phía Bắc Kinh muốn trấn an các nhà đầu tư ngoại quốc về tình hình và môi trường kinh doanh ở Hoa Lục. Đây không chỉ là một thông điệp nhắm tới các doanh nhân Mỹ mà còn nhắn gửi đến các hãng của Đài Loan bên cạnh những tuyên bố chính thức ‘đằng đằng sát khí’. Theo chỗ tôi được biết, cấp cao nhất trong chính quyền tại Bắc Kinh, trấn an các doanh nhân Đài Loan là một điểm nhấn. Một ủy viên Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản đã đề nghị thành lập một đặc khu kinh tế với những điều khoản ưu đãi, dành riêng cho các doanh nhân Đài Loan. Điểm được chọn là tỉnh Phúc Kiến, gần với Đài Loan nhất, ở phía nam Trung Quốc. Không chỉ với Mỹ mà cả với Đài Loan, sợi chỉ đỏ trong chính sách kinh tế của Bắc Kinh càng lúc càng rõ nét Sợi chỉ đỏ trong chính sách của Bắc Kinh càng lúc càng rõ nét. Thông điệp chính dường như là, bất chấp những mối đe dọa, Trung Quốc không phải là một điểm đầu tư nguy hiểm như mọi đang nghĩ hiện nay ».
Những bàn tay thép trong những chiếc găng nhung
Tuy nhiên, cũng sẽ là một sai lầm lớn nếu nghĩ rằng Trung Quốc đã bị dồn vào chân tường để phải nhượng bộ Washington. Drew Thomson, một cựu quan chức của Lầu Năm Góc, được đài Mỹ CNN trích dẫn giải thích thái độ « mềm mỏng » hơn vì Bắc Kinh đã nhận thấy rằng không có lợi khi thổi phồng « mối đe dọa Hoa Kỳ ». Trái lại, một mối bang giao « ổn định » và « bình thường » với nền kinh tế số 1 thế giới và phương Tây sẽ tiếp tục nuôi dưỡng cỗ máy tăng trưởng của Trung Quốc.
Valérie Niquet, thuộc Quỹ Nghiên Cứu Chiến Lược Pháp, cũng nhận thấy rằng thái độ hung hăng không cho phép Bắc Kinh thủ lợi :
« Tập Cận Bình muốn là các nhà đầu tư Mỹ và quốc tế trở lại Trung Quốc vào lúc mà vốn đầu tư nước ngoài ồ ạt rút khỏi Hoa Lục. Trong một thời gian dài, khi nói đến Trung Quốc các doanh nhân quốc tế nhìn thấy những cơ hội nhiều hơn là những rủi ro. Bây giờ thì ngược lại. Người ta thận trọng trước các dự án đầu tư vào Trung Quốc, hay là chọn giải pháp Trung Quốc +1 để bớt lệ thuộc vào một quốc gia với những quyết định không nhất quán ».
Về cơ bản Mỹ và Trung Quốc vẫn là những đối thủ đáng gờm
Một sai lầm khác cũng tai hại không kém nếu chủ quan cho rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc bắt đầu sưởi ấm quan hệ một cách lâu dài. Agathe Demarais trung tâm nghiên cứu quan hệ quốc tế châu Âu nhắc lại : hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa ở Mỹ đang bị chia rẽ vì rất nhiều vấn đề, ngoại trừ việc xem Trung Quốc là một « mối đe dọa ».
Cứng giọng với Trung Quốc dễ cho phép tổng thống Biden thuyết phục công luận trước mùa tranh cử. Do vậy, không mấy ai chờ đợi từ nay đến mùa thu sang năm, Washington sẽ nói lỏng một số các biện pháp trừng phạt và kềm tỏa Trung Quốc cả về thương mại lẫn công nghệ.
Đó là chưa kể cuộc tranh giành ảnh hưởng Mỹ-Trung với phần còn lại của thế giới đang diễn ra trên rất nhiều mặt. Chỉ riêng về thương mại, hơn một nửa số thành viên khối G20 lệ thuộc vào các luồng giao thương của Trung Quốc nhiều hơn là của Mỹ. Chỉ một mình Trung Quốc chiếm hơn 20 % tổng kim ngạch mậu dịch của nhiều nước lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Úc, Brazil, Indonesia ...
Nhìn từ phía Trung Quốc, ông Tập Cận Bình thừa biết Joe Biden không và không thể tỏ ra hòa hoãn (hay tệ hơn nữa là « mềm yếu ») với Bắc Kinh trên các hồ sơ quan trọng từ nay cho đến ngày bầu cử.
Về cơ bản, chính sách Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ trong mắt đảng Cộng Sản Trung Quốc là công cụ để Washington « kềm tỏa đà phát triển chính đáng » của Trung Quốc trong khu vực này. Do vậy, từ thượng đỉnh Bali đến San Francisco, ông Tập Cận Bình lại càng quyết tâm hơn trong việc thực hiện « tham vọng tự chủ về quân sự và công nghệ » với Hoa Kỳ như bà Collen Cottle, một cựu nhân viên tình báo CIA được tờ USAToday (ngày 18/11/2023) trích dẫn.
Nhà báo Pierre Antoine Donet, từng điều hành chi nhánh của hãng tin Pháp AFP tại Bắc Kinh, loại bỏ khả năng Mỹ và Trung Quốc « sưởi ấm quan hệ » một cách lâu dài. Chẳng qua là Washington vẫn cần hàng rẻ của Trung Quốc, Bắc Kinh thì cần công nghệ và thị trường của Mỹ để phát triển. Nhờ có sự « phụ thuộc đó », hai siêu cường thế giới này tránh lao vào một cuộc đối đầu về mặt quân sự.
Tue, 21 Nov 2023 - 147 - Hai bài học từ các biện pháp trừng phạt kinh tế Nga và Trung Quốc
Sau nhiều năm « cuộc chiến mậu dịch » kéo dài, vế kinh tế và thương mại là một trong những hồ sơ hai nhà lãnh đạo Joe Biden -Tập Cận Bình sẽ đề cập đến nhân thượng đỉnh tại San Francisco, bên lề hội nghị Diễn Đàn Hợp Tác Châu Á Thái Bình Dương APEC. Thêm vào đó là yếu tố Nga, kể từ khi Matxcơva bị quốc tế trừng phạt vì xâm chiếm Ukraina.
Mỹ một năm trước bầu cử tổng thống còn tại Trung Quốc, toàn cảnh kinh tế khá ảm đạm : Mỗi bên mặc cả những gì với đối phương trong bối cảnh giao thương quốc tế càng lúc càng bị những tính toán chính trị làm xáo trộn ?
RFI tiếng Việt mời giáo sư Sébastien Jean Học Viện Mỹ Thuật và Công Nghệ Quốc Gia CNAM phân tích về một nghịch lý trong quan hệ quốc tế : các nền kinh tế trên thế giới càng lúc càng « gắn kết chặt chẽ với nhau, càng phụ thuộc vào lẫn nhau » đồng thời thương mại, tài chính, công nghệ hay năng lượng … đều là những công cụ - nếu không muốn nói là một loại vũ khí, để mặc cả, để bắt chẹt hay kềm tỏa sức mạnh của đối phương.
Sébastien Jean, nguyên là giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu về Triển Vọng Kinh Tế và Thông Tin Quốc Tế. Cùng với Thomas Gomart, giám đốc Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI, ông vừa cho công bố một nghiên cứu mới về thương mại quốc tế. Tài liệu mang tựa đề : « Découplage impossible, coopération improbable : Les interdépendances économiques à l’épreuve des rivalités de puissance - Không thể tách rời, ít triển vọng hợp tác : Những sự phụ thuộc về kinh tế trước những tranh giành để thể hiện sức mạnh » - Viện IFRI tháng 11/2023.
Mục tiêu một « hiệp định hưu chiến » cho các doanh nghiệp Mỹ và Trung Quốc ?
Trước hết trong cuộc thảo luận được dự trù kéo dài trong bốn giờ đồng hồ ngày 15/11/2023 giữa tổng thống Mỹ Joe Biden và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, trên hồ sơ kinh tế, đâu là những ưu tiên của mỗi bên ?
Hãng tin Mỹ AP ghi nhận : Washington vừa tiếp tục kiểm soát xuất khẩu chíp điện tử và linh kiện bán dẫn cho Trung Quốc vừa trấn an Bắc Kinh là Mỹ không tiến hành một cuộc chiến tranh kinh tế nhắm vào quốc gia châu Á này. Các quan chức cao cấp nhất trong chính quyền Biden nhiều lần khẳng định Mỹ không chủ trương « tách rời - decoupling » với Trung Quốc mà chỉ là « giảm thiểu rủi ro - derisking » để bớt lệ thuộc quá nhiều vào một quốc gia mà thôi. Ngoài ra phía Hoa Kỳ cũng muốn thăm dò ý định của Trung Quốc trong liên hệ thương mại, kinh tế và tài chính giữa Bắc Kinh và Matxcơva vào lúc Âu Mỹ phong tỏa kinh tế Nga, trừng phạt chính quyền Vladimir Putin đưa quân xâm chiếm Ukraina .
Về phía ông Tập Cận Bình, chủ tịch Trung Quốc chờ đợi gì sau cuộc đối thoại trực tiếp thứ nhì với tổng thống Biden trong bối cảnh, trong giao đoạn từ tháng 7-9/2023 đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) rút khỏi Hoa Lục cao hơn so với số các khoản đầu tư mới vào Trung Quốc nước ngoài vào Trung Quốc, hiện tượng này chưa từng xảy ra kể từ 1998 tới nay ?
Vẫn AP dự báo Bắc Kinh muốn được bảo đảm là Washington sẽ không ban hành thêm các hàng rào quan thuế đánh vào hàng Trung Quốc bán sang thị trường Mỹ, Hoa Kỳ không dùng đòn công nghệ để « triệt hạ » các tập đoàn công nghệ mới của quốc gia này. Lịch làm việc của ông Tập trong bốn ngày từ 14-17/11/2023 có dự trù một cuộc tiếp xúc với giới doanh nghiệp Mỹ với thông điệp chính : Trung Quốc là một điểm đầu tư an toàn.
Cuối cùng nếu như Nhà Trắng muốn thăm dò ý định của chủ tịch Tập Cận Bình về quan hệ giữa Trung Quốc và Nga thì đổi lại Bắc Kinh cũng muốn tìm hiểu về những ý đồ của tổng thống Biden với Đài Loan, một cường quốc trong công nghệ bán dẫn và cũng là trung tâm cuộc đọ sức Mỹ -Trung về công nghệ.
Tầm mức quan trọng của cuộc đối thoại trực tiếp thứ nhì -và rất có thể là đối thoại cuối cùng trong nhiệm kỳ này của tổng thống Biden, giữa hai nhà lãnh đạo, Joe Biden -Tập Cận Bình cho thấy hai vế kinh tế và chính trị gắn chặt đến mức độ nào hai nền kinh tế hàng đầu thế giới. Đặc biệt là khi mà « những tham vọng về chính trị, và địa chính trị, yếu tố ý thức hệ càng lúc càng chi phối các hoạt động về thương mại và tài chính quốc tế » :
Sébastien Jean :« Dưới tác động từ tiến trình toàn cầu hóa, các siêu cường kinh tế trên thế giới đã được gắn kết chặt chẽ với nhau hơn bao giờ hết, cả về giao thương lẫn tài chính. Nhưng từ hơn một chục năm nay, hay chính xác hơn là từ giữa thập niên 2000, yếu tố chính trị và địa chính trị càng lúc càng chi phối các hoạt động mậu dịch và kể cả trong lĩnh vực tào chính. Lần đầu tiên chúng ta rơi vào nghịch cảnh là các nền kinh tế thì liên hệ rất chặt chẽ với nhau, nhưng đồng thời các các mối hiềm khích, thậm chí là một sự thù nghịch giữa các nền kinh tế đó cũng chưa bao giờ mạnh như hiện tại (…)
Dù vậy hoàn cảnh éo le này không dẫn đến tình trạng gọi là phi toàn cầu hóa. Điều rõ ràng nhất là các quốc gia vẫn rất lệ thuộc vào nhau. Tình hình như vậy lúc nào cũng căng thẳng, bởi vì mỗi bên đều có thể khai thác lá bài kinh tế, tài chính để phục vụ các ý đồ chính trị. Chính vì thế mà ngày càng có nhiều đòn trừng phạt, nhiều quyết định giới hạn xuất nhập khẩu trên một số thị trường. Tựu chung, các mối quan hệ về kinh tế và tài chính đã bị các chính giới thao túng. Có nghĩa là nhiều nước vẫn cứ ban hành các biện pháp trừng phạt, cấm vận … nhắm vào các đối phương. Câu hỏi còn lại là các biện pháp trừng phạt đó có hiệu quả hay không ».
RFI : Hiệu quả có được như mong muốn hay không ? Trong trường hợp giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc thì các biện pháp tăng thuế nhập khẩu vào Mỹ đánh lên hàng Trung Quốc vẫn không cho phép Washington giảm thâm hụt mậu dich với Bắc Kinh. Thêm vào đó, hai chính quyền Mỹ liên tiếp vì lý do « an ninh quốc gia » ban hành các biện pháp cấm hay giới hạn các chương trình hợp tác về công nghệ giữa các công ty của hai nước, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều liên hệ giữa các một số tập đoàn Mỹ và Trung Quốc kể cả trong những lĩnh vực được coi là nhậy cảm nhất.
Sébastien Jean :« Chúng ta nhận thấy rằng khó có thể đạt được những mục tiêu chính trị bằng các công cụ như vậy. Nghĩa là dùng đòn kinh tế để đạt được mục đích chính trị. Cần hiểu rằng, giao thương quốc tế dựa trên nguyên tắc ‘tôi cũng có lợi và anh cũng có lợi’. Vậy nếu tôi trừng phạt anh thì tôi cũng bị thiệt hại. Điều đó có nghĩa là một biện pháp trừng phạt chỉ có lợi nếu như chúng ta biết chắc rằng, đối phương sẽ trả giá đắt hơn so với những thiệt hại mà ta sẽ phải gánh chịu. Đó là điều rất khó thực hiện. Mỗi biện pháp trừng phạt đều luôn luôn có những liều thuốc hóa giải, có nghĩa sẽ nảy sinh những hình thức khác nhau để luồn lách lệnh trừng phát đó ».
Để giảm bớt lệ thuộc vào Trung Quốc, căn cứ trên các thống kê, cho thấy, đúng là tổng kim ngạch nhập khẩu của Mỹ với bạn hàng Trung Quốc đã giảm. Nhưng trong cùng thời kỳ, nhập khẩu của Hoa Kỳ với một số quốc gia khác như Mêhicô, hay Việt Nam, Ấn Độ… đã tăng mạnh. Bản thân ba quốc gia này thì đã mua vào nhiều hơn hàng của Trung Quốc để bán lại cho sang thị trường Mỹ. Nói cách khách Hoa Kỳ muốn tránh Trung Quốc nhưng để rồi lại bị lệ thuộc nhiều hơn vào các nhà cung cấp khác và chính những nguồn cung cấp này lại là khách hàng của Bắc Kinh. Trong điều kiện đó không thể kết luận là kinh tế Mỹ và Trung Quốc đã bớt phụ thuộc vào nhau hay đang ‘tách rời’ khỏi lẫn nhau. Các luồng giao thương giữa hai nền kinh tế này chỉ trở nên mù mịt và phức tạp hơn mà thôi ».
RFI : Còn liên quan đến nước Nga ?
Sébastien Jean : « Đây là một trường hợp quan trọng, bởi vì lần đầu tiên nhiều biện pháp trừng phạt mạnh đã được ban hành và nhắm vào một nền kinh tế có trọng lượng như là Nga. Cùng một lúc Nga phải đối mặt với các biện pháp cấm vận cả về thương mại lẫn tài chính. Chính sách trừng phạt đã đem lại nhiều hệ quả và gây trở ngại về nhiều mặt cho kinh tế nước này. Nhưng kinh tế Nga đã không sụp đổ như nhiều người mong đợi bởi hai lý do. Về mặt tài chính Matxcơva vẫn không bị thiếu hụt tiền mặt nhờ vẫn tiếp tục xuất khẩu tài nguyên, dầu khí …. Trong những lĩnh vực khác, đành rằng Nga đã bị kẹt vì không thể tiếp cận được với công nghệ cao, bị cấm nhập khẩu một số phụ tùng có thể sử dụng trong lĩnh vực quân sự, để chế tạo vũ khí, nuôi dưỡng cỗ máy chiến tranh nhưng Matxcơva đã lách lệnh cấm đó nhờ một số trung gian, như Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ hay một số nước lân cận như Kazakhstan. Trong trường hợp này, lệnh cấm vận có hiệu quả nhưng chỉ một phần ».
Tác động đến dây chuyển sản xuất và hoạt động thương mại toàn cầu ?
Trong nghiên cứu vừa công bố trên trang mạng của Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI về thương mại quốc tế, giáo sư đã nêu bật một số điểm chính như sau : giao thương trên thế giới phức tạp hơn bởi các nền kinh tế vừa là những đối tác vừa là những đối thủ của lẫn nhau và lại lệ thuộc rất lớn vào nhau. Cũng chính mức độ lệ thuộc đó mà các luồng giao thương, từ hàng hóa đến tài chính… đều rất dễ bị khai thác để phục vụ cho những mục tiêu chính trị và chiến lược. Kinh tế thương mại, tài chính … dễ trở thành những công cụ để mặc cả, thậm chí là để uy hiếp các đối tác …Thưa ông Sébastien Jean, trong trường hợp đó dây chuyền sản xuất nói riêng và học thuyết thương mại quốc tế nói chung bị xáo trộn như thế nào ?
Sébastien Jean« Các dây chuyền sản xuất đã bị méo mó. Hiểu theo nghĩa, như tôi vừa đơn cử trường hợp của Mêhicô hay Việt Nam và Ấn Độ khi mà các quốc gia này nhập khẩu nhiều hơn hàng của Trung Quốc để bán lại sang Mỹ. Tuy nhiên, trước những thách thức mới đó, các doanh nghiệp cũng đã thay đổi chiến lược phát triển : đa dạng hóa các nguồn cung cấp, mở các nhà máy ở nhiều nơi khác nhau tránh để yếu tố địa chính trị làm gián đoạn chuỗi cung ứng hay tránh để phải đóng cửa một số cơ xưởng …. Nhưng đó là những biện pháp đòi hỏi nhiều thời gian để mang lại kết quả. Thí dụ như Apple muốn ra khỏi Trung Quốc, mở địa bàn ở Ấn Độ và Việt Nam nhưng cần thời gian để đóng cửa bớt các chi nhánh hay cắt giảm hợp đồng với các hãng gia công Trung Quốc …. Ở cấp quốc gia, thì các chính phủ đã đẩy mạnh các chương trình tự chủ về công nghiệp, tìm mọi cách -nhất là biện pháp ưu đãi thuế khóa, để khuyến khích doanh nghiệp hồi hương… Tất cả những điều đó đòi hỏi phải mất nhiều năm mới hoàn thành ».
Khái niệm An toàn về kinh tế
Cũng vì yếu tố « địa chinh trị », thay vì sử dụng khái niệm « cạnh tranh -competition » trong giao thương quốc tế, giới trong ngành thường nói đến một « sự đối đầu - rivality » giữa các đối tác thương mại. Do vậy theo Thomas Gomart và Sébastien Jean, hai đồng tác giả công trình nghiên cứu đăng trên trang mạng của IFRI, bài thọc thứ nhất là chưa bao giờ các nền kinh tế trên thế giới phụ thuộc chặt chẽ vào nhau như hiện tại, điều đó không cấm cản, cũng chưa khi nào các đối tác thương mại lại sử dụng «vũ khí hạng nặng » để trừng phạt lẫn nhau.
Bài học thứ nhì đồng thời cũng là hệ quả kèm theo, là các quốc gia vẫn tiếp tục trao đổi mậu dịnh nhưng luôn trong thế thủ với một khái niện mới là « an toàn kinh tế -sécurité économique ».Đó là lý do vì sao Trung Quốc đã có hẳn chiến lược với ba mục tiêu : tự chủ về công nghệ cao không để phụ thuộc vào Mỹ hay các đồng minh của Washington ; làm chủ các nguồn tài nguyên thiên nhiên ; và bảo vệ quyền lợi quốc gia ở hải ngoại.
Về phía Hoa Kỳ thì chính sách năng lượng được coi là một vấn đề chiến lược từ lâu nay. Ngoài ra Mỹ cũng luôn thủ thân bằng rất nhiều biện pháp trừng phạt các nước bất hảo và kể cả các nước bạn như Liên Âu. Còn Nga thì dùng khoáng sản, nông phẩm, phân bón, dầu khí ... để bắt chẹt hay mua chuộc các đối tác hay đổi thủ của Matxcơva. Trong cuộc chạy đua tranh giành ảnh hưởng đó Liên Hiệp Châu Âu mới vừa «tỉnh ngủ »và chuyển hưởng về mục tiêu tự chủ công nghiệp. Giáo sư Sébastien Jean, học viện CNAM của Pháp kết luận.
Tue, 14 Nov 2023
Podcasts ähnlich wie Tạp chí kinh tế
- Global News Podcast BBC World Service
- CNBC's "Fast Money" CNBC
- El Partidazo de COPE COPE
- Herrera en COPE COPE
- The Dan Bongino Show Cumulus Podcast Network | Dan Bongino
- Es la Mañana de Federico esRadio
- La Noche de Dieter esRadio
- Hondelatte Raconte - Christophe Hondelatte Europe 1
- Dateline NBC NBC News
- 財經一路發 News98
- La rosa de los vientos OndaCero
- Más de uno OndaCero
- La Zanzara Radio 24
- L'Heure Du Crime RTL
- El Larguero SER Podcast
- Nadie Sabe Nada SER Podcast
- SER Historia SER Podcast
- Todo Concostrina SER Podcast
- 安住紳一郎の日曜天国 TBS RADIO
- アンガールズのジャンピン[オールナイトニッポンPODCAST] ニッポン放送
- 辛坊治郎 ズーム そこまで言うか! ニッポン放送
- 飯田浩司のOK! Cozy up! Podcast ニッポン放送
- 吳淡如人生實用商學院 吳淡如
- 武田鉄矢・今朝の三枚おろし 文化放送PodcastQR
Andere Geschäft Podcasts
- Tanguy Pastureau maltraite l'info France Inter
- Les experts BFM Business
- C'est votre argent BFM Business
- BFM Bourse BFM Business
- Tout pour investir BFM Business
- Forward Leadership George Moustakelis
- Midnight Zen Wilton Ng
- On n'arrête pas l'éco France Inter
- SMART BOURSE SMART BOURSE
- Grands Leaders, les leçons de l'Histoire Radio Classique
- Afrique économie RFI
- Economie & Finance Max Labadie
- Radio Bichon Le podcast des passionnés du bâtiment
- Medium Energy Evan Helda
- 2050 Investors (en français) Société Générale
- IA qu'à m'expliquer Le Temps Podcasts
- Ni Buenas Ni Malas Ni Buenas Ni Malas Podcast
- FAQ IMMOBILIER Maryan GreatParis
- La Martingale Matthieu Stefani | Orso Media
- Leadership Stars Linda Patten