Filtra per genere
- 99 - Pháp, Hungary, Serbia : Ba điểm đến, ba mục tiêu của Tập Cận Bình
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từ ngày 05/05 đến ngày 10/05/2024 sẽ đi thăm ba nước châu Âu Pháp, Hungary và Serbia. Đây là chuyến công du châu Âu đầu tiên của ông kể từ sau đại dịch Covid-19 và sẽ được Hoa Kỳ theo dõi chặt chẽ nhằm phát hiện bất kỳ chỉ dấu nào báo hiệu một sự suy giảm ủng hộ đối với chính sách đối ngoại quan trọng của Washington.
Theo lịch trình, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có chuyến thăm cấp Nhà nước hai ngày 06 và 07/05/2024 tại Pháp nhằm đánh dấu 60 năm thiết lập quan hệ song phương giữa Paris và Bắc Kinh, trước khi đến Serbia và kết thúc chuyến công du châu Âu tại Hungary từ ngày 08 đến ngày 10/05/2024.
Liên Hiệp Châu Âu trong vòng xoáy căng thẳng Mỹ - Trung
Thông cáo của điện Elysée nêu rõ « ác cuộc khủng hoảng quốc tế như chiến tranh Ukraina và tình hình Trung Đông, hồ sơ thương mại, hợp tác khoa học, văn hóa và thể thao cũng như những hành động chung để đối phó với các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, bảo vệ đa dạng sinh học và tình hình tài chính các nước dễ tổn thương nhất » sẽ là những chủ đề trọng tâm trong cuộc thảo luận giữa đôi bên.
Chuyến thăm Pháp của ông Tập Cận Bình diễn ra trong bối cảnh căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng đáng kể. Cuộc đọ sức trong lĩnh vực công nghệ mà gần đây nhất liên quan đến Tik Tok, là một bước leo thang mới trong cuộc cạnh tranh gay gắt giành thế bá quyền giữa hai ông khổng lồ trên thế giới.
Lãnh đạo Trung Quốc đến châu Âu vào một thời điểm nhạy cảm : Hoa Kỳ bước vào một giai đoạn bầu cử mà kết quả vẫn bất định, Ấn Độ trong mùa bỏ phiếu bầu mới Quốc Hội kéo dài nhiều tuần, trong khi Châu Âu, vừa phải tập trung các nỗ lực cho Ukraina, vừa phải chuẩn bị cho cuộc bầu cử Nghị Viện Châu Âu vào tháng Sáu tới đây.
Một bối cảnh bất lợi cho Pháp và châu Âu, nhưng đó lại là một cơ hội cho Trung Quốc khẳng định quyết tâm thể hiện như là một cường quốc dấn thân, « nguồn lực cho hòa bình, ổn định và tiến bộ trên thế giới » theo như phát biểu của ngoại trưởng Vương Nghị hồi đầu tháng Ba, trước đối thủ Hoa Kỳ, hiện đang « bị sa lầy » trong hai cuộc xung đột quy mô lớn.
Thăm Paris, Bắc Kinh ve vãn, lôi kéo Liên Âu tránh xa Washington
Trung Quốc tìm cách nối lại quan hệ với Châu Âu, muốn tận dụng nỗi lo lắng của khối 27 nước liên quan đến bầu cử tổng thống Mỹ để bảo đảm rằng châu Âu khẳng định rõ ràng hơn và cụ thể hơn quyền « tự chủ chiến lược » thường xuyên được nói đến nhưng chưa được thực hiện đầy đủ trong nhãn quan của Bắc Kinh.
Theo South China Morning Post, quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Hiệp Châu Âu những năm gần đây đã trở nên căng thẳng do mất cân bằng cán cân thương mại. Liên Âu tỏ ra bất mãn trước những khó khăn tiếp cận thị trường Trung Quốc.
Khối 27 nước gần đây còn cho mở điều tra về cáo buộc Bắc Kinh ưu đãi cho các công ty Trung Quốc trong việc mua sắm thiết bị y tế, cũng như những nghi ngờ trợ giá cho các dòng sản phẩm phục vụ cho chuyển đổi năng lượng như tua bin gió, pin năng lượng mặt trời…, hay vấn đề xe ô tô điện do Trung Quốc sản xuất để có lợi thế giành các hợp đồng ở EU hay thâm nhập thị trường EU.
Những động thái mà theo phân tích Agatha Kratz, chuyên gia về kinh tế Trung Quốc, với đài France Culture, cho thấy « có nhiều sự liên kết giữa mối quan tâm của Mỹ và các quan tâm của châu Âu, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Chúng ta đã thấy là châu Âu đưa ra rất nhiều công cụ, sáng kiến nhằm giải tỏa những lo ngại này. »
Vài ngày trước chuyến công du đến Paris của ông Tập Cận Bình, ngoại trưởng Vương Nghị trong cuộc điện đàm với người đồng cấp nói rằng Bắc Kinh « hy vọng phía Pháp sẽ thúc đẩy Liên Hiệp Châu Âu theo đuổi chính sách tích cực và thực dụng hơn đối với Trung Quốc ». Sự việc cho thấy Bắc Kinh hy vọng là không cuộc điều tra nào trong số này sẽ dẫn đến sự tách rời về kinh tế hay ngăn chặn công nghệ của Trung Quốc, một con đường mà Hoa Kỳ đang đeo đuổi.
Pháp : Quân cờ « hữu ích »
Để đạt được mục tiêu này, Trung Quốc thúc giục các nước châu Âu phát huy quyền tự chủ và trong chiến lược này, Pháp rõ ràng là một quân cờ hấp dẫn. Đảng Cộng sản Trung Quốc xem Pháp là một quốc gia « có tầm nhìn tương tự » như Trung Quốc.
AP nhắc lại, đến thăm Trung Quốc hồi tháng 4/2023, tổng thống Emmanuel Macron từng kêu gọi khối 27 nước nên áp dụng quyền tự chủ chiến lược và không trở thành « chư hầu » trong cuộc xung đột Mỹ - Trung. Tổng thống Pháp còn khiến Mỹ lo lắng khi tuyên bố Paris sẽ không mù quáng đi theo Washington tham gia các cuộc khủng hoảng mà họ không liên quan, ám chỉ rõ ràng đến yêu cầu thống nhất Đài Loan của Trung Quốc.
Nhưng nhà Trung Quốc học Alice Ekman, trả lời phỏng vấn báo Pháp L’Opinion ngày 14/03/2024, lưu ý Liên Âu chớ mất cảnh giác trước chiến dịch ve vãn của Trung Quốc : « Giọng điệu hòa dịu hơn, nhưng lập trường không thay đổi và vẫn đối lập nhau trên nhiều hồ sơ lớn, trên hết là hồ sơ Ukraina ».
Theo bà, Liên Hiệp Châu Âu có thể vẫn là đối tác thương mại hàng đầu, nhưng vì những lý do ý thức hệ và thực tiễn địa chính trị, Trung Quốc vẫn xem Nga như là một đối tác ưu tiên và tự nhiên. Quyết định chọn đến thăm Hungary và Serbia, hai nước chủ trương thân Nga, là một thông điệp rõ ràng : Chớ có kỳ vọng vào Bắc Kinh, thông qua mối quan hệ cá nhân giữa ông Tập Cận Bình và đồng nhiệm Nga Vladimir Putin, để gây áp lực với Matxcơva nhằm giải quyết xung đột tại Ukraina !
François Chimits, kinh tế gia thuộc Trung tâm tư vấn Mercator, Viện Nghiên cứu về Trung Quốc, trên làn sóng France Culture, nhìn nhận Pháp và Liên Âu chỉ là một phần tử trong phương trình lớn : « Đối diện với tình thế này, Trung Quốc muốn tìm cách"bắt cá hai tay", nghĩa là vẫn duy trì đối tác chiến lược với Nga, nhưng đồng thời vẫn gìn giữ lối vào rộng mở, cũng như những trao đổi kinh tế năng động với Liên Hiệp Châu Âu. Theo tôi, điều này có thể giải thích cho việc tăng cường quan hệ ngoại giao song phương Pháp – Trung từ 4-5 năm qua. »
Cũng theo ông François Chimits, trong triển vọng bầu cử châu Âu và tổng thống Mỹ, « Trung Quốc muốn tìm kiếm khả năng thắt chặt hơn các mối quan hệ với châu Âu nhằm tránh cho việc khối này siết chặt mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương hơn là với Trung Quốc ».
Hungary : « Đối tác » chiến lược
Để có thể giữ chân Liên Âu, Bắc Kinh có thể trông cậy vào hai đối tác : Hungary – thành viên Liên Hiệp Châu Âu và NATO – Liên Minh Bắc Đại Tây Dương và Serbia, quốc gia vùng Balkan, có lập trường khá thân Nga.
Vào tháng 7/2024, Hungary dưới sự lãnh đạo của thủ tướng Victor Orban sẽ đảm nhiệm chức chủ tịch luân phiên của khối 27 nước châu Âu. Cũng theo South China Morning Post, vài ngày trước khi ông Tập lên đường đến Paris, ngoại trưởng Vương Nghị trong cuộc gặp với người đồng cấp Hungary Peter Szijjarto tại Bắc Kinh cũng đưa ra một thông điệp tương tự như với ngoại trưởng Pháp.
Khi ca tụng Hungary là « một quốc gia châu Âu có ảnh hưởng độc đáo, áp dụng chính sách độc lập », lãnh đạo ngành ngoại giao Trung Quốc bày tỏ hy vọng « Hungary sẽ tăng cường hợp tác chiến lược Trung Quốc – EU », khuyến khích khối 27 nước có « quan điểm hợp lý và thân thiện về sự phát triển của Trung Quốc » và theo đuổi « chính sách Trung Quốc tích cực và thực dụng hơn ».
Đáp lời, ngoại trưởng Hungary cho biết chính phủ Budapest phản đối việc « tách rời » khỏi Trung Quốc, một đối tác của sự « lựa chọn đúng đắn », đồng thời khẳng định Trung Quốc là một nước lớn có ảnh hưởng toàn cầu, và kêu gọi « thắt chặt » hơn quan hệ Hungary – Trung Quốc cũng như Liên Âu – Trung Quốc, trong bối cảnh quốc tế hỗn loạn.
Nếu như Pháp kỳ vọng nhân chuyến thăm của ông Tập Cận Bình, Trung Quốc có thể gia tăng đầu tư tại Pháp, nhất là trong lĩnh vực xe ô tô điện, thì chính Hungary là nơi tập trung nhiều nhất đầu tư của Trung Quốc. Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, quan hệ Trung – Hung còn được tăng cường cả trong vấn đề an ninh. Tháng 2/2024, Budapest công bố thỏa thuận an ninh mới với Trung Quốc, theo đó, cảnh sát Trung Quốc có thể tuần tra ở nước này.
Theo François Chimits, mối quan hệ đặc biệt này có thể gây ra nhiều rủi ro chính trị trên phương diện tầm ảnh hưởng và khả năng ra quyết định độc lập của châu Âu : « Bởi vì trong tất cả các vấn đề về quan hệ quốc tế, Liên Hiệp Châu Âu vận hành với sự nhất trí cho đến hiện tại. Đương nhiên, Hungary – với tư cách là một trong 27 nước thành viên – một mình có thể ngăn chặn rất nhiều quyết định. »
Đây chính là những gì đã diễn ra gần đây cho Thụy Điển. Chính phủ thủ tướng Orban đã trì hoãn việc quốc gia Bắc Âu này gia nhập khối NATO trong nhiều tháng. Với Trung Quốc, chính việc mở rộng khối liên minh quân sự này đã kích động ông Putin xâm chiếm Ukraina.
NATO, chất xúc tác cho mối quan hệ Beograd – Bắc Kinh
Cuối cùng liên quan đến Serbia, từ nhiều thập niên qua, Bắc Kinh đã xây dựng một mối quan hệ bền chặt, bao gồm cả việc chuyển giao hệ thống tên lửa phòng không một cách bí mật cho nước Cộng hòa Nam Tư cũ vào năm 2022.
Theo dự đoán, nguyên thủ quốc gia Trung Quốc có khả năng đến Beograd vùng Balkan này vào ngày 7/5. Ngày này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đúng kỷ niệm 25 năm vụ NATO ném bom trúng đại sứ quán Trung Quốc làm thiệt mạng ba nhà báo Trung Quốc. Tòa đại sứ năm xưa nay đã được biến thành một trung tâm văn hóa Trung Quốc rộng lớn và được coi là lớn nhất châu Âu, nhưng vẫn chưa được khai trương chính thức. Nhiều suy đoán cho rằng giới chức Trung Quốc và Serbia chờ chuyến thăm của ông Tập để đánh dấu sự kiện.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng đầu tư rất nhiều tại quốc gia vùng Balkan, xây dựng cơ sở hạ tầng và nhất là trong lĩnh vực khai thác mỏ. Theo một phóng sự của kênh truyền hình ARTE hồi tháng 12/2022, Trung Quốc tập trung khai thác chủ yếu vàng và đồng, những khoáng sản dồi dào ở vùng phía đông Serbia. Quốc gia này cũng là cửa ngõ để Trung Quốc tiến vào thị trường châu Âu. Bắc Kinh, Budapest và Beograd hiện đang đàm phán về việc xây dựng một tuyến đường sắt nối Budapest – Beograd trị giá 1,9 tỷ đô la do Trung Quốc tài trợ.
Tóm lại, theo Alice Ekman, nhà Trung Quốc học Viện Nghiên cứu An ninh của Liên Hiệp Châu Âu, nền ngoại giao Trung Quốc sẽ tiếp tục khéo léo trải thảm đỏ đón tiếp Pháp và những nước châu Âu nào mà Trung Quốc có thể xem là những nước phương Tây hữu ích trong ngắn hạn, để khoét sâu thêm nữa những bất đồng trong lòng phe phương Tây.
Cụ thể, nếu như chuyến thăm Paris là cơ hội để Bắc Kinh tập trung vào mối quan hệ rộng lớn hơn với châu Âu, thì các điểm dừng Hungary và Serbia cho phép Trung Quốc khẳng định rằng ảnh hưởng của mình ở Đông và Trung Âu vẫn còn nguyên vẹn !
Thu, 02 May 2024 - 98 - Quan hệ Trung – Nga và những « ngộ nhận » của phương Tây
Việc Nga và Trung Quốc xích lại gần sắp tròn 10 năm và đã bị đánh giá thấp. Tiến trình này thường bị xem là một « cuộc hôn nhân theo lý trí », đơn giản theo hoàn cảnh, bị giới hạn ở sự hợp tác năng lượng và quá bất cân xứng để mà tồn tại. Giờ người ta còn nói đến Nga trở thành « chư hầu » của Trung Quốc, một tình trạng cũng sẽ không thể trụ lâu.
Nhưng theo nhà Trung Quốc học Alice Ekman, việc đặt cược nhiều vào những hạn chế của sự xích lại gần giữa Trung Quốc và Nga cũng chứa đầy nhiều rủi ro lớn cho phương Tây.
Trong một bài tham luận tựa đề « Trung – Nga : Bước lớn xích lại gần », do nhà xuất bản Gallimard ấn hành hồi tháng 12/2023, nữ chuyên gia về Trung Quốc, tiến sĩ về Quan hệ Quốc tế thuộc Viện Nghiên cứu An ninh của Liên Hiệp Châu Âu, trình bày một số phân tích cho thấy một số nhà quan sát phương Tây đã có những cái nhìn « lệch lạc » về quan hệ Trung - Nga trong suốt gần 10 năm qua.
An ninh chính trị là một ưu tiên
Mối quan hệ này chưa bao giờ mang tính « tạm thời » như nhiều nhận định kể từ khi Nga bắt đầu chuyển hướng sang Trung Quốc với việc ký kết nhiều thỏa thuận năng lượng quan trọng sau vụ Nga sáp nhập bán đảo Crimée năm 2014. Bước xích lại gần này còn được củng cố hơn trong bối cảnh Nga tiến hành cuộc xâm lược Ukraina năm 2022.
Nga và Trung Quốc đã tuyên bố « tình hữu nghị vô bờ bến » bên lề Thế Vận Hội Mùa Đông ở Bắc Kinh. Bất chấp cuộc chiến tàn khốc tại Ukraina, Trung Quốc chưa bao giờ lên án hành động xâm lược này, mà luôn khẳng định rằng Nga là « đối tác chiến lược quan trọng nhất » của Bắc Kinh. Trung Quốc từ chối nói đến « chiến tranh Ukraina », chỉ xem đấy là « khủng hoảng » hay sử dụng lại cụm từ « chiến dịch quân sự đặc biệt » của Nga.
Theo Alice Ekman, mối quan hệ hợp tác song phương không đơn giản chỉ là một cơ hội cho kinh tế hay năng lượng, mà đúng hơn mang tính thiết yếu để bảo đảm điều gọi là « an ninh chính trị » trong dài hạn, được giới lãnh đạo chính trị hiện tại coi là điều cần thiết cho việc duy trì quyền lực. Điều này đã được Tập Cận Bình khẳng định chẳng chút vòng vo trong những năm gần đây, khi tuyên bố rằng củng cố « an ninh chính trị » là một ưu tiên.
Cả hai nguyên thủ quốc gia Nga và Trung Quốc cùng phản đối mọi sự thay đổi chế độ, nhất là trên chính lãnh thổ của họ. Dường như nỗi sợ lớn nhất của giới lãnh đạo Trung Quốc là việc Hoa Kỳ ủng hộ một sự thay đổi chế độ trên lãnh thổ. Và nỗi lo này càng được củng cố với cuộc chiến tại Irak, xung đột ở Syria, hay cái chết bi thảm của nhà độc tài Kadhafi ở Libya năm 2011.
Phương Tây : Kẻ thù chung
Tiến trình xích lại gần giữa Nga và Trung Quốc được xây dựng dựa trên cùng cảm nhận và chỉ định một kẻ thù chung là « phương Tây ». Chuyến công du cấp nhà nước của ông Tập Cận Bình đến Nga gặp đồng nhiệm Vladimir Putin hồi tháng 3/2023 đã cho thấy rõ sự đồng nhất quan điểm địa chiến lược này giữa Bắc Kinh và Matxcơva.
Do vậy, theo nhà phân tích Alice Ekman, việc Trung Quốc bỏ phiếu trắng về ba nghị quyết lên án cuộc chiến xâm lược tại Ukraina năm 2022, trên thực tế không phải là một hình thức giữ khoảng cách với Nga theo như cách diễn giải từ nhiều nhà quan sát. Cử chỉ này đã được Trung Quốc thể hiện ngay từ năm 2014 sau vụ Nga sáp nhập bán đảo Crimée.
Cùng là thành viên thường trực tại Hội Đồng Bảo An, Nga và Trung Quốc ngày càng phối hợp chặt chẽ hơn trong nhiều hồ sơ chiến lược như Bắc Triều Tiên, Iran và Syria…, và cùng bảo vệ một phân tích chung về nhiều xung đột trên thế giới, khi chỉ định một cách có hệ thống Mỹ và các đồng minh là những kẻ gây rối.
Trên kênh truyền hình quốc tế France 24, chuyên gia về Trung Quốc Alice Ekman nhận định lập trường này của Nga và Trung Quốc sẽ còn được liên kết chặt chẽ hơn nữa trong tương lai :
«Tiến trình xích lại gần giữa Trung Quốc và Nga phần lớn được củng cố do sự đối kháng với Mỹ, nghĩa là cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc trong dài hạn. Cuộc đọ sức này được thấy rõ ở nhiều cấp độ : Thương mại, công nghệ, chính trị, và trong một chừng mực nào đó là ý thức hệ.
Đối diện với cuộc cạnh tranh này lâu dài này – vốn dĩ hoàn toàn độc lập với kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, cho dù là sẽ có một tác động nhưng chúng ta thấy là có một sự đồng thuận lưỡng đảng ở Washington, cùng xem Trung Quốc như là một mối đe dọa – ,Trung Quốc đã cho rằng mối quan hệ với Nga có vai trò hàng đầu để giành thắng lợi sau cùng trong cuộc đọ sức dài hơi với Mỹ. Và do vậy cần phải lập mặt trận chung đối phó Mỹ và rộng hơn nữa là phương Tây.
Mục tiêu của Trung Quốc từ mười năm qua là tìm cách giảm thiểu thế cô lập, nghĩa là xây dựng một liên minh các nước mà trong đó Nga là một cột trụ chính. Chúng ta thấy rõ là có một sự điều phối ngày càng nhiều giữa Bắc Kinh và Matxcơva tại Liên Hiệp Quốc,chẳng hạnvề vấn đề bán đảo Triều Tiên, bởi vì cả hai nước đều phản đối việc thông qua lệnh trừng phạt nhắm vào Bắc Triều Tiên sau các vụ thử vũ khí năm rồi và hiện nay.
Cả hai nước có cùng chung lập trường trên gần như tất cả các hồ sơ và các xung đột khu vực cũng như là thế giới hiện nay. Trung Quốc thực sự hậu thuẫn Nga về mặt chính trị và ngoại giao từ khi Nga tiến hành cuộc chiến xâm lược Ukraina. »
Nga : « Chư hầu » của Trung Quốc ?
Trái với nhiều phân tích cho rằng bước tiến gần nhau Nga – Trung có những hạn chế do thiếu một liên minh quân sự, do các tranh chấp biên giới, cũng như sự mất cân đối giữa hai cường quốc trên bình diện kinh tế và dân số, Alice Ekman đã phản đối những kết luận vội vã, đánh giá Nga đã trở thành một « chư hầu » của Trung Quốc. Nữ chuyên gia này lưu ý rằng sự bất cân xứng đó không hiện diện trên tất cả các lĩnh vực:
« Trung Quốc là điểm đến hàng đầu cho dầu lửa Nga. Dĩ nhiên, Bắc Kinh khá thông minh để thương lượng các mức giá có lợi trong các thỏa thuận năng lượng, Ấn Độ cũng vậy. Trên thực tế, nền kinh tế Nga và Trung Quốc bổ sung cho nhau. Hơn nữa, Nga vẫn là một cường quốc không gian, cường quốc hạt nhân, chứ không chỉ là cường quốc quân sự mà cả dân sự nữa. Trung Quốc hiểu rõ điều đó. Ngoài ra, Nga là một thị trường hấp dẫn cho ô tô Trung Quốc, nhất là xe điện.
Trên bình diện chính trị, ngoại giao, các cuộc gặp và trao đổi giữa hai nguyên thủ quốc gia, cũng như ở cấp bộ trưởng, ngày một nhiều (…) Nếu chỉ cho rằng đó chỉ là những cuộc gặp thông thường thì không đúng. Những cuộc gặp này diễn ra đều đặn, dày đặc hơn, và mối quan hệ hợp tác kinh tế đã được lên kế hoạch cho dài hạn.
Chỉ cần nhìn vào những tài liệu chung được ký kết và thông qua sau mỗi cuộc gặp, chúng ta thấy rõ có một kế hoạch cho 20, 25 năm. Mối quan hệ hợp tác, không chỉ trong năng lượng, công nghệ mà cả trong nông nghiệp, được vạch ra hoàn toàn độc lập với tiến triển cuộc chiến tại Ukraina. Đấy mới là điều cần lưu ý ! »
Ngoài ra, Nga và Trung Quốc cam kết sẽ không đối chọi nhau trong nhiều hồ sơ liên quan đến những ưu tiên của hai nước nằm trong khu vực lân kề của họ. Điều này được thể hiện rõ trong việc hai bên đã nhanh chóng xử lý các vấn đề tranh chấp biên giới ngay từ những năm 1990, sau khi Liên Xô sụp đổ.
Trung Á : Nga – Trung « phân chia » công việc
Bắc Kinh và Matxcơva cũng đồng thuận « phân định vai trò » của họ tại Trung Á: Nga chấp nhận ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc, trong khi Bắc Kinh thừa nhận ảnh hưởng quân sự của Matxcơva, nhằm giảm thiểu khả năng « cạnh tranh gay gắt » như nhiều nhà phân tích nói đến.
« Sự cạnh tranh tại Trung Á không cản trở tiến trình xích lại gần giữa Nga và Trung Quốc. Người ta thường nói rằng mối quan hệ này không thể lâu bền, bởi vì chúng chỉ có hiệu quả trong ngắn hạn, Nga không có chọn lựa nào khác, khi thường xuyên nêu ra hai điểm căng thẳng giữa Nga và Trung Quốc.
Đầu tiên hết là họ nói đến căng thẳng về dân số tại Siberia. Nhưng khi nhìn rõ các con số, đúng hơn là có một sự sụt giảm số dân Trung Quốc tại Siberia, chỉ vì mức lương ở Trung Quốc giờ hấp dẫn hơn so với ở phía Nga vì nhiều lý do khác nhau. Do vậy, chẳng có một hiểm họa, một sự xâm lược nào từ phía người dân Trung Quốc ở Siberia và đây không là một điểm căng thẳng quan trọng (..)
Tiếp đến, ở cấp độ biên giới, rõ ràng Nga và Trung Quốc không còn các tranh chấp. Ngay từ những năm 1990 và dần dần cả hai nước đã làm mọi cách để bình ổn đường biên giới và điều này là quan trọng bởi vì đây là điều đang xảy ra giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Hai bên vẫn còn đang có những tranh chấp, thậm chí gây chết người trong những năm gần đây. Điều này không còn nữa giữa Nga và Trung Quốc.
Điều đáng quan tâm là các nhà ngoại giao Trung Quốc vẫn thường xuyên đề cập đến đường biên giới quan trọng này và ý chí mang tính lịch sử đó để bình ổn mối quan hệ hiện nay, trong khi vấn đề này vẫn đang đặt ra nhiều nghi vấn ở Trung Quốc.
Liên quan đến Trung Á, đương nhiên có một sự cạnh tranh giữa Nga và Trung Quốc trong vùng, nhưng đáng chú ý là Trung Quốc làm mọi cách để dàn xếp với Nga trong khu vực. Chẳng hạn, Bắc Kinh nhấn mạnh đến vai trò bổ sung của Nga với các dự án cơ sở hạ tầng trong khuôn khổ Con Đường Tơ Lụa Mới trong khối Hợp tác Thượng Hải. Rồi còn có những cuộc tập trận chung được tiến hành trong vùng một cách tương đối hài hòa. »
Chống Mỹ và các đồng minh: Nga,Trung sát cánh
Từ những quan sát này, Alice Ekman cho rằng những nhận định nói rằng Nga trở thành « chư hầu » của Trung Quốc là sai lệch. Trong các tuyên bố, ngành ngoại giao Trung Quốc luôn có sự sắp xếp với Nga và tránh tối đa xem Nga như là một cường quốc yếu thế. Một lần nữa, nữ chuyên gia nhấn mạnh, Nga và Trung Quốc không cảm thấy bên này hay bên kia là một mối đe dọa. Ngược lại, cả hai nước cùng xác định Mỹ và các đồng minh là những mối đe dọa hàng đầu đối với những lợi ích cơ bản của Nga và Trung Quốc.
Điều này giải thích cho lập trường nước đôi của Bắc Kinh trong việc Matxcơva luôn đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân tại Ukraina. Bắc Kinh có vẻ cảm thấy bất bình nhiều hơn với việc tầu ngầm hạt nhân của Mỹ đến Hàn Quốc hồi tháng 7/2023 hơn là những lời dọa dẫm từ Nga. Trên đài France 24, Alice Ekman giải thích :
« Các nhà ngoại giao Trung Quốc không nói đến điểm này nhưng giới phân tích Trung Quốc thường nói nửa vời là họ cảm thấy khó chịu về cuộc xâm lược Ukraina của Nga, rằng vấn đề hạt nhân là trọng tâm, hay như họ phản đối sử dụng vũ khí hạt nhân, hay dọa dùng vũ khí hạt nhân, kể cả trong bối cảnh cuộc xâm lược Ukraina.
Vấn đề này cũng đã được ông Tập Cận Bình đề cập đến trong chuyến thăm cấp nhà nước đến Nga và trong cuộc gặp với Vladimir Putin hồi tháng 3/2023. Tuy nhiên, hai tuần sau, Nga thông báo triển khai vũ khí hạt nhân trên lãnh thổ Belarus, nhưng Trung Quốc không tỏ ra khó chịu, cũng không công khai bày tỏ bất mãn, chỉ trích…
Đây không phải là chủ đề gây cản trở cho việc Nga và Trung Quốc xích lại gần nhau. Ngược lại, mối quan hệ quân sự còn được tăng cường và các cuộc tập trận chung giữa hai nước vẫn tiếp diễn. Tôi thực sự có cảm giác rằng đó chỉ là những tuyên bố bề ngoài về tầm quan trọng của việc không sử dụng vũ khí hạt nhân, nhưng trong sâu thẳm, có một sự hậu thuẫn thực sự và được Trung Quốc khẳng định với Nga, quốc gia luôn chỉ trích NATO, phương Tây, liên minh phương Tây như là bên chịu trách nhiệm đầu tiên cho những gì đang diễn ra ở Ukraina.
Đương nhiên, tình hình phức tạp hơn nhiều, nhưng phát biểu chống phương Tây ngày càng trở nên dữ dội tại Trung Quốc hiện nay và tất nhiên là rất gay gắt ở Nga. Ở đây, có một đồng nhất trong các phát biểu cũng như lập trường về chủ đề này. »
Tóm lại, theo Alice Ekman, sự xích lại gần giữa Nga và Trung Quốc đã chống chọi được với bài trắc nghiệm chiến tranh Ukraina và tiếp tục được củng cố hơn sau cuộc tấn công của phe Hamas chống Israel. Nga và Trung Quốc kể từ giờ có thể cùng đẩy lùi sự hiện diện và tầm ảnh hưởng của các nước phương Tây tại nhiều nơi trên thế giới, kềm hãm hay ngăn chặn thế chủ động ngoại giao của phương Tây. Sự đồng nhất trong những tuyên truyền, khuyến khích sự trỗi dậy tại một số nước « phương Nam », các quan điểm chống phương Tây ngày càng mang tính chất thuyết âm mưu và dữ dội.
Nỗi căm ghét chung nhằm vào Mỹ và các đồng minh, mong muốn làm suy yếu và gạt ra bên lề phe phương Tây – cách thức duy nhất để có thể bảo đảm tính ổn định chính trị của họ theo đánh giá của hai đối tác này – là những yếu tố thúc đẩy hai nước xích lại gần nhau hơn và liên kết họ chặt chẽ hơn bao giờ hết. Bởi vì, trong nhãn quan của Vladimir Putin và Tập Cận Bình, đây là lúc cho sự lên ngôi của một thế giới hậu phương Tây và họ hy vọng rằng có thể cùng nhau đạt được điều đó !
Thu, 25 Apr 2024 - 97 - Senegal: Người vừa ra tù 10 ngày đắc cử tổng thống và sự kỳ diệu của nền dân chủ
Những ngày đầu tháng 2/2024, nhiều con tim hướng về Senegal, đất nước châu Phi nhỏ bé 18 triệu dân, từng được coi là ‘‘ốc đảo dân chủ’’ của vùng Tây Phi, nơi đang bị quân thánh chiến Hồi Giáo đe dọa, đảo chính quân sự diễn ra tại nhiều nước, ảnh hưởng của Nga và Trung Quốc gia tăng. Bầu cử Senegal bị hoãn trong lúc đảng đối lập chính bị giải tán, các thủ lĩnh bị bắt giam. Dân chúng phẫn nộ.
Ngày 03/02, ngay sau khi tổng thống Marky Sall, cầm quyền từ năm 2012, bất ngờ tuyên bố hoãn cuộc bầu cử dự kiến (ít giờ trước khi cuộc tranh cử ba tuần lễ), dân chúng ngay lập tức xuống đường chống lại hành động bám víu quyền lực của tổng thống mãn nhiệm, điều được coi là chưa từng có kể từ khi Senegal độc lập, một cuộc ‘‘đảo chính’’ chống lại Hiến pháp.
Tính chất dễ tổn thương của một nền dân chủ
Senegal là một trong các quốc gia dân chủ hàng đầu tại châu Phi. Trước cuộc bầu cử 2019, Senegal vốn được xếp vào nhóm ‘‘các nền dân chủ còn khiếm khuyết’’ (Flawed democracies), ngang với các quốc gia như Ba Lan, theo xếp hạng của Economist Group. Khủng hoảng tại Senegal một lần nữa khiến nhiều người đặt câu hỏi về khả năng chống chọi với khủng hoảng của một chế độ dân chủ đa đảng. Trong những điều kiện nào một chế độ dân chủ đa đảng, vận hành theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền, có thể vượt qua được khủng hoảng lớn, đặc biệt trong giai đoạn chuyển tiếp quyền lực?
Khủng hoảng tưởng như không có lối ra. Tính từ năm 2021, tức sau khi khủng hoảng bùng lên với việc Ousmane Sonko, lãnh đạo đảng đối lập chính Pastef bị bắt, đã có hàng chục người chết trong các vụ đụng độ với cảnh sát. Tuy nhiên, chỉ ít tuần sau quyết định hoãn bầu cử của tổng thống, thay đổi ngoạn mục diễn ra. Các lãnh đạo đối lập được thả, bầu cử được tổ chức với sự giám sát quốc tế. Chính trị gia Bassirou Diomaye Faye, 44 tuổi, một cựu nhân viên ngành thuế, được trả tự do ngày 14/03, đúng vào lúc cuộc tranh cử tổng thống bắt đầu. Ngày 24/03, ông Bassirou Diomaye Faye nhận được hơn 54% phiếu bầu của cử tri, đắc cử ngay vòng một. Tổng thống mãn nhiệm, Marky Sall, cầm quyền từ năm 2012, chủ trương ủng hộ thủ tướng mãn nhiệm, đã nhanh chóng thừa nhận chiến thắng của đối thủ. Phép lạ nào đã dẫn đến tình thế đảo ngược ngoạn mục như vậy?
Tòa án Hiến pháp độc lập
Có thể thấy độc lập tư pháp là tác nhân trực tiếp tạo điều kiện cho thắng lợi của ứng cử viên đối lập. Ngày 15/02, Tòa Bảo Hiến Senegal ra phán quyết hủy bỏ luật Quốc Hội (bị các dân biểu đối lập tẩy chay) và sắc lệnh của tổng thống yêu cầu hoãn kỳ bầu cử đến cuối năm. Tòa Bảo Hiến Senegal yêu cầu chính quyền tổ chức bầu cử trước khi nhiệm kỳ của tổng thống Macky Sall kết thúc ngày 02/04.
Trên đài RFI, nhà chính trị học Gilles Yabi, người sáng lập WATHI, nhóm tư vấn chuyên về chính trị Tây Phi, trong bài ‘‘Tòa Bảo Hiến đã cứu vãn các định chế chính trị Senegal’’, nhấn mạnh đến tính chuyên nghiệp của các thẩm phán, thực hiện đúng nghĩa vụ giám sát việc tuân thủ Hiến pháp, và quyết định đưa ra nằm đúng trong quyền hạn của định chế tư pháp tối cao này. Theo nhà chính trị học Gilles Yabi, so sánh với tình hình tại ‘‘nhiều quốc gia châu Phi nói tiếng Pháp, nơi tất cả các định chế nhà nước bị quyền lực áp đảo của tổng thống chi phối’’, phán quyết vừa qua của Tòa Bảo Hiến Senegal rõ ràng là ‘‘dũng cảm và đáng được ca ngợi’’.
Quân đội: Đặt chế độ Cộng hòa lên trên đảng phái
Ngay trước thềm cuộc bỏ phiếu, ngày 22/03, đài Pháp TV5 Monde có bài ‘‘Senegal có thực sự là một mô hình của dân chủ ?’’, cung cấp thêm nhiều góc nhìn khác giúp làm rõ phép lạ nào đã dẫn đến tình thế đảo ngược kỳ lại nói trên.Trong số các nguyên nhân được nêu ra, có vai trò đặc biệt quan trọng của quân đội, là lực lượng bảo vệ chính thể Cộng hòa. Theo ghi nhận của nhà chính trị học Babacar Ndiaye, ‘‘Senegal là quốc gia duy nhất trong khu vực không bị đảo chính quân sự kể từ khi độc lập’’.
Khâu đào tạo các chỉ huy quân đội đóng vai lớn. Theo nhà chính trị học Mahamadou Seck, ‘‘Các thành viên trong quân đội Senegal cũng trải qua các đào tạo gần giống với bên dân sự. Họ được học tập tại các trường đại học và tiếp xúc với thực tế. Một chỉ huy cao cấp trong quân đội Senegal có thể trao đổi thoải mái và có chiều sâu về các vấn đề lớn của thế giới. Điều đó có nghĩa là họ không thuộc giới võ biền. Tư duy của họ dựa trên các khái niệm, các mối quan tâm gắn bó mật thiết với lý tưởng của một nền Cộng hòa’’.
Phẩm chất nói trên của quân đội Senegal là một điều kiện quan trọng đối với những giai đoạn chuyển đổi quyền lực. Giá trị này càng nổi rõ trong bối cảnh đảo chính diễn ra tại hàng loạt quốc gia láng giềng như Mali, Burlkina Faso, Tchad, Niger, hay Guinea...
Đảng đối lập kiên định và linh hoạt
Cùng với vai trò của Tòa Bảo Hiến độc lập, một nhân tố khác trực tiếp quyết định thắng lợi, đó là đảng đối lập chính và các lãnh đạo đối lập chủ chốt đã không từ bỏ mục tiêu, bất chấp việc đảng bị giải tán, nhiều lãnh đạo bị bắt giam.
Đảng Pastef (tên đầy đủ là đảng Những người Phi châu yêu nước ở Senegal tranh đấu vì Lao động, Công bằng và Bác ái), thành lập năm 2014, bị giải thể năm 2023. Tuy nhiên, các nhà tranh đấu của đảng này đã sẵn sàng nhiều phương án nhân sự, nhằm duy trì cuộc tranh đấu trong khuôn khổ luật pháp, không bị bỏ lỡ cơ hội tranh cử tổng thống, theo thời hạn được quy định.
Cặp bài trùng Sonko và Faye một mặt tranh đấu để lãnh đạo đảng Sonko, ứng cử viên tổng thống năm 2019, vốn là người rất có uy tín trong xã hội, có thể được phép tranh cử, mặt khác họ sẵn sàng cho phương án B, tức phương án để Faye, nhà lãnh đạo thứ hai, ra thay thế, nhưng chủ trương của đảng là gắn chặt hình ảnh của hai nhà lãnh đạo. Lý do là ông Faye cho dù bị bắt giam nhưng chưa bị kết án, nên không mất quyền ứng cử. Trong suốt những tháng trước bầu cử, khi họ còn ở trong tù, hay trong thời gian một tuần tranh cử, khẩu hiệu ‘‘Sonko mooy Diomaye, Diomaye mooy Sonko’’ (tức ‘‘Sonko là Diomaye, Diomaye là Sonko’’) có mặt trên khắp mọi miền đất nước.
Xã hội dân sự: Thiết tha với dân chủ và khao khát ‘‘sang trang’’
Việc một người mới ra tù 10 ngày có thể đắc cử tổng thống có thể là một điều kỳ lạ với rất nhiều người ngoài cuộc, nhưng có lẽ không hẳn là kỳ lạ đối với nhiều người dân Senegal, những người tham gia làm nên chính ‘‘phép lạ’’ ấy. Nhà phân tích chính trị Aliou Ndiaye tin tưởng là ‘‘lựa chọn chế độ dân chủ, sống trong một chế độ mà chủ quyền tối thượng xét đến cùng là thuộc về người dân… đã là sự lựa chọn không thể đảo ngược đối với từ 99 đến 100% dân Senegal’’. Chuyên gia về bầu cử Mamadou Seck có phần tỏ ra dè dặt hơn khi ghi nhận, ‘‘tình trạng nghèo khó’’, không độc lập về kinh tế, có thể khiến cử tri ‘‘không hoàn toàn được tự do trong lựa chọn’’, lá phiếu có thể bị mua chuộc bằng tiền. Cuộc bỏ phiếu ngày 24/03 rút cuộc đã được hơn 60% cử tri tham gia, ít hơn so với cuộc bầu cử năm 2019, nhưng nhiều hơn cuộc bỏ phiếu 2012.
Đứng ở tuyến đầu của cuộc phản kháng chống tổng thống Macky Sall là các nghệ sĩ nhạc rap. Đối với giới hip hop ở Dakar, các ca khúc, các buổi biểu diễn chuyển tải tinh thần chính trị và hành động công dân đã trở thành một truyền thống. Đúng vào giữa Cúp bóng đá châu Phi (Coupe d’Afrique des Nations) đầu tháng 2 vừa qua, sau khi tổng thống ra sắc lệnh hoãn bầu cử, ban nhạc nổi tiếng Positive Black Soul trở lại với ca khúc Finale (Trận chung kết).
Nghệ sĩ rap dấn thân, đứng về phía nhân dân
Theo đài Radio France, sau hơn 20 năm sự nghiệp, Positive Black Soul vẫn ‘‘duy trì phong độ’’. Bài hát Trận chung kết mượn ngôn từ bóng đá để lên án quyết định hoãn bầu cử của tổng thống mãn nhiệm: ‘‘Không gì có thể thay đổi luật chơi ! Hai hiệp là hai hiệp !’’ (nul ne peut changer la règle, deux mi-temps, c’est deux mi-temps).
Nghệ sĩ Didier Awadi, thủ lĩnh của Positive Black Soul, ‘‘là người không bao giờ sợ hãi khi nói lên thật to, thật rõ những gì mà nhiều người Senegal chỉ dám nghĩ thầm’’. Những ca từ tranh đấu, với âm hưởng mãnh liệt của nghệ sĩ nhạc rap sinh năm 1969, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử nhạc rap Senegal những năm 2000. Cách nay ba năm, ngay khi làn sóng phản kháng bùng lên chống lại việc bắt giữ lãnh đạo đối lập, ban nhạc Positive Black Soul đã ‘‘trực diện tấn công’’ tổng thống Macky Sall, với nhạc phẩm Bayil Mu Seddbằng tiếng wolof (một trong sáu ngôn ngữ quốc gia của Senegal), kêu gọi bảo vệ nền dân chủ, chống độc tài.
Cả một thế hệ trẻ đã đứng dậy: ‘‘Một thế giới khác là có thể’’
Trả lời phỏng vấn RFI sau cuộc bầu cử, nghệ sĩ Didier Awadi ghi nhận: ‘‘Chỉ trong vòng hai ba năm, cả một thế hệ trẻ mới đã đứng lên. Họ hết sức quan tâm đến chính trị. Cả một khối quần chúng đông đảo quan tâm đến chính trị. Có cả các bạn thiếu niên rất trẻ. Còn chưa đến tuổi bầu cử, nhưng họ đã biết rất rõ về các ứng cử viên. Những tranh luận sôi nổi diễn ra trong nội bộ các gia đình, nhưng vấn đề quan trọng là tất cả đều quan tâm đến chính trị, và mọi người đã lựa chọn. Giờ đây chúng ta có một tổng thống trẻ tuổi, đại diện cho sức trẻ của xã hội Senegal.’’
Cụ thể người dân Senegal mong muốn và chờ đợi gì với lãnh đạo mới? Nghệ sĩ Didier Awadi tóm lược: ‘‘Mọi người, từ con cái của nông dân đến con cái của tổng thống, đều phải được hưởng các cơ hội như nhau. Trông đợi là rất lớn : Chính quyền mới phải đặt lợi ích quốc gia lên trên. Phải mở ra với thế giới, nhưng cần bảo vệ trước hết những người nông dân, ngư dân của chúng ta. Cần phải tiến hành việc chế biến các nguyên vật liệu ngay tại đất nước chúng ta. Cần phải sửa chữa nhiều sai lầm của chúng ta, tấn công vào nạn tham nhũng. Chính tệ nạn này đã làm cho chúng ta mất rất nhiều tiền của. Củng cố các định chế nhà nước để có thể chống lại bất cứ lãnh đạo có xu hướng độc tài nào.
Tân tổng thống có lợi thế là ông làm việc trong ngành thuế, nên ông hiểu nạn tham nhũng từ bên trong. Ông ấy biết phải thay đổi như thế nào từ bên trong. Một khi trên thượng đỉnh quyền lực, các vấn đề này được sửa chữa, tôi tin rằng xã hội bên dưới cũng thay đổi thái độ. Nếu như ta có kỷ luật, không tham nhũng, thì không gì ngăn cản Senegal nhanh chóng trở thành một đất nước mà chúng ta mơ ước. Chúng tôi tranh đấu cho một nền chính trị cánh tả, một cách điều hành đất nước kiểu khác, và chủ trương xây dựng một cộng đồng Liên Phi là điều xuyên suốt các hoạt động của chúng tôi. Một thế giới khác là có thể, một đất nước Senegal khác là có thể !’’.
‘‘Một thế giới khác là có thể’’ (Un autre monde est possible) cũng là tên một album của Didier Awadi ra đời cách nay gần hai mươi năm.
‘‘Phép lạ’’ dân chủ: Các cội rễ sâu xa và những thách thức thường trực
Một chế độ dân chủ chưa bảo đảm cho một quốc gia có được một sức mạnh kinh tế vượt trội, một uy lực chính trị lớn trên trường quốc tế. Nhưng một chế độ dân chủ rõ ràng có thể giúp cho một đất nước duy trì được hòa bình trong nội bộ, khi những tiếng nói khác biệt được tôn trọng, cho phép xã hội có nhiều khả năng điều chỉnh hướng đi, giảm bớt nguy cơ rơi vào hỗn loạn.
Với hơn nửa thế kỷ độc lập, gần nửa thế kỷ thực thi chế độ dân chủ đa đảng, xã hội Senegal dường như đã hiểu rõ bằng cách nào mà giai đoạn chuyển đổi quyền lực có thể diễn ra trong hòa bình với tổn thất tối thiểu. Câu chuyện về người ra tù 10 ngày đắc cử tổng thống Senegal cho thấy sự dẻo dai của nền dân chủ châu Phi này.
Kinh nghiệm trong cuộc bầu cử tổng thống của Senegal tháng 3/2024 một mặt thể hiện phần dễ tổn thương của một chế độ dân chủ, mặt khác cũng cho thấy sức mạnh kỳ diệu của chế độ dân chủ. Sau hơn nửa thế kỷ thực hành dân chủ, với cuộc bầu cử gay cấn vừa qua, xã hội Senegal một lần nữa đã vượt qua sóng gió. Đất nước Senegal một lần nữa siết chặt đoàn kết, để có thể dồn sức đương đầu với các thách thức mới.
Một trong những thách thức sống còn với nền dân chủ là duy trì đoàn kết xã hội. Để tiếp tục được phép lạ ‘‘dân chủ’’, theo nhiều nhà quan sát, Senegal không chỉ cần tiếp nối các điểm ưu việt của chế độ dân chủ hiện đại, hình thành từ nửa thế kỷ nay, với sự thúc đẩy của cố tổng thống người Công Giáo Léopold Senghor, tại một đất nước mà đa số dân theo đạo Hồi. Mô hình dân chủ đặc sắc của Senegal cũng bám rễ sâu trong các thể chế cộng đồng nhiều thế kỷ. Tân tổng thống Bassirou Diomaye Faye, trong chuyến công cán trong nước đầu tiên, đã chọn gặp đại diện một số cộng đồng Hồi Giáo truyền thống, được nhiều nhà quan sát nhìn nhận như lá chắn giúp đất nước chống lại Hồi Giáo cực đoan.
Thu, 18 Apr 2024 - 96 - Quyền phủ quyết của Nga: « Tương lai nghiệt ngã » cho lệnh trừng phạt Bắc Triều Tiên
Ngày 28/03/2024, Nga, thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An, đã phủ quyết việc triển hạn công tác của ủy ban chuyên gia của Liên Hiệp Quốc, có nhiệm vụ giám sát các lệnh trừng phạt Bắc Triều Tiên. Trong cuộc bỏ phiếu này, Trung Quốc đã vắng mặt. Theo nhiều nhà phân tích, sự việc dự báo một tương lai « đen tối » cho việc thực thi các lệnh trừng phạt Bình Nhưỡng.
Chuyện gì đã xảy ra ?
Từ năm 2006, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã ban hành các lệnh trừng phạt Bắc Triều Tiên do nước này vẫn tiền hành các chương trình chế tạo vũ khí hạt nhân. Những biện pháp đó đã được siết chặt hơn vào năm 2016 và 2017. Tuy nhiên, sau khi Bình Nhưỡng thử vũ khí hạt nhân lần thứ hai vào năm 2009, một nhóm chuyên gia đã được thành lập – với sự hỗ trợ từ Nga và Trung Quốc – để giám sát và báo cáo mọi hành động vi phạm lệnh cấm vận của Bắc Triều Tiên.
Theo thông lệ, nhiệm vụ của hội đồng chuyên gia này hết hạn vào cuối tháng Tư hàng năm và năm nay, Nga đã dùng quyền phủ quyết, ngăn chặn việc triển hạn. Trung Quốc, đồng minh quân sự duy nhất và cũng là đối tác thương mại lớn nhất của Bắc Triều Tiên, đã bỏ phiếu trắng. Bắc Kinh và Matxcơva một mặt phủ nhận vi phạm các lệnh trừng phạt, mặt khác ủng hộ việc dỡ bỏ một số lệnh cấm hiện có đối với Bình Nhưỡng, đồng thời đổ lỗi cho phương Tây đã làm trầm trọng thêm các căng thẳng.
Theo AFP, Nga đã hành động như vậy vào lúc, đầu tháng 3/2024, trong một báo cáo dài 600 trang, ủy ban chuyên gia nhấn mạnh rằng Bắc Triều Tiên tiếp tục « vi phạm các lệnh trừng phạt của Hội Đồng Bảo An », khi phát triển chương trình hạt nhân, thử nghiệm tên lửa đạn đạo, vi phạm các biện pháp trừng phạt hàng hải và các hạn chế nhập khẩu dầu lửa. Ngoài ra, ủy ban chuyên gia cho biết họ đang điều tra các cáo buộc về việc chuyển giao vũ khí giữa Matxcơva và Bình Nhưỡng, vi phạm các lệnh cấm vận. Mỹ và Hàn Quốc khẳng định Bắc Triều Tiên đã vận chuyển một lượng lớn vũ khí đến Nga để sử dụng trên chiến trường Ukraina.
Vì sao Nga phủ quyết ?
Hành động này của Nga đã bị các nước phương Tây đồng loạt lên án là có nguy cơ gây ra những hệ quả nghiêm trọng cho việc « thực thi các nghị quyết của Hội Đồng Bảo An và đối phó với những hành động gây bất ổn » của Bình Nhưỡng, đồng thời « đe dọa đến cơ chế chống phổ biến hạt nhân » của quốc tế.
Đại sứ Hàn Quốc bên cạnh Liên Hiệp Quốc Hwang Joon Kook đã có những chỉ trích mạnh mẽ, ví quyền phủ quyết của Nga với việc « phá hủy một camera giám sát để tránh bị bắt quả tang ». Sự việc cũng khiến Seoul thất vọng và cảm thấy « toát mồ hôi lạnh, vốn dĩ hy vọng vào khả năng hợp tác nhiều hơn một chút từ phía Matxcơva và Bắc Kinh », theo như quan sát từ nhà địa chính trị học Olivier Guillard với RFI Tiếng Pháp.
Sự việc diễn ra trong bối cảnh những năm gần đây Matxcơva và Bình Nhưỡng tỏ dấu hiệu xích lại gần nhau hơn, nhất là từ khi Nga bị phương Tây trừng phạt vì cuộc chiến xâm lược Ukraina. Một số nhà quan sát cho rằng đây có thể là cách Nga phản đối các biện pháp trừng phạt của phương Tây nhắm vào Nga thông qua Bắc Triều Tiên.
Trước các chỉ trích từ Mỹ và các nước đồng minh, đại sứ Nga bên cạnh Liên Hiệp Quốc Vassily Nebenzia đã phản bác, cáo buộc « công việc của hội đồng này ngày càng bị biến thành một công cụ có lợi cho cách tiếp cận của phương Tây », bằng cách « đưa lại các thông tin sai lệch, phân tích các tiêu đề báo chí cũng như hình ảnh kém chất lượng ».
Thế nhưng, theo những người ủng hộ việc duy trì ủy ban chuyên gia, chính Nga và Trung Quốc đã ngăn chặn hay tìm cách che giấu những phát hiện bất lợi. Một cựu thành viên cấp cao, xin ẩn danh với Reuters vì tính chất nhạy cảm ngoại giao, cho biết :
« Báo cáo mới nhất rất thú vị, bởi vì tuy chúng đi sâu vào một số chi tiết hữu ích về tài chính và lao động ở nước ngoài, Trung Quốc hầu như không được đề cập đến. Nếu quý vị đang nói về việc vi phạm các biện pháp trừng phạt mà không nhắc đến Trung Quốc, thì điều đó thực sự không phải là sự phản ảnh đủ mức chính xác về những gì đang thực sự diễn ra. »
Hồi kết cho cơ chế giám sát trừng phạt ?
Cũng theo cựu thành viên này, các báo cáo của ủy ban tuy giống như một bản tóm tắt toàn diện, nhưng chỉ là một phần nhỏ trong một câu đố lớn hơn, thường bị bỏ sót một số phần quan trọng nhất.
Trả lời AFP, Yu Hwan Koh, cựu chủ tịch Viện Thống Nhất Quốc Gia Hàn Quốc, nhận xét : « Có thể nói Nga đã tỏ ra sẵn sàng dành cho Bắc Triều Tiên một số phạm vi hoạt động nhất định khi thực thi quyền phủ quyết về các lệnh trừng phạt ở cấp độ Liên Hiệp Quốc. Nga và Bắc Triều Tiên hợp tác bởi sự cần thiết, bằng cách trao đổi một sự hợp tác quân sự và hỗ trợ kinh tế mà Bắc Triều Tiên đang cần. »
Phải chăng lá phiếu phủ quyết của Nga đã đặt dấu chấm hết cho cơ chế trừng phạt Bắc Triều Tiên ? Nhà địa chính trị học, Olivier Guillard, trả lời RFI Pháp ngữ, tin rằng quyết định này của Nga chưa hẳn là hồi kết cho cơ chế giám sát thực thi lệnh trừng phạt: « Trong một chừng mực nào đó, cơ chế này vẫn sẽ tồn tại, mọi thứ sẽ không bị dỡ bỏ. Ngược lại, điều hiển nhiên là người ta phải chấp nhận một thực tế : Bắc Triều Tiên đã thuyết phục được Nga ít chú ý hơn đến cơ chế này và nhất là đến Bình Nhưỡng ».
Đương nhiên, việc cơ chế giám sát bị giải thể có thể dẫn đến một sự hợp tác ba bên chặt chẽ hơn giữa Mỹ – Nhật – Hàn. Các bằng chứng về vi phạm lệnh trừng phạt vẫn có thể được công bố ra công chúng. Hugh Griffiths, cựu giám đốc ủy ban chuyên gia và hiện là cố vấn về các lệnh trừng phạt, nhận định với Reuters rằng « các ngân hàng và công ty bảo hiểm trên thế giới vẫn dựa vào các báo cáo độc lập để phong tỏa các tài khoản có liên quan đến mạng lưới trốn tránh lệnh trừng phạt của Triều Tiên ở nước ngoài, nên các báo cáo của cơ chế này vẫn tiếp tục được công bố. »
Tương lai « đen tối » cho việc thực thi lệnh trừng phạt ?
Vẫn theo Hugh Griffiths, quyền phủ quyết của Nga cho thấy Matxcơva không muốn việc mua trái phép tên lửa đạn đạo và đạn pháo của Bắc Triều Tiên bị một cơ quan của Hội Đồng Bảo An báo cáo. Điều này cũng có nghĩa là « Vladimir Putin sẽ tăng cường hợp tác về tên lửa đạn đạo và phá bỏ lệnh cấm vận đối với chế độ Bình Nhưỡng ».
Hành động này của Nga đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cơ chế trừng phạt Bắc Triều Tiên. Kể từ giờ sẽ không có lệnh trừng phạt mới nào ở cấp độ Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc trong môi trường địa chính trị hiện tại. Gánh nặng cũng sẽ gia tăng cho những nước nào phải thực thi lệnh trừng phạt, cụ thể là Mỹ và các nước đồng minh.
Về điểm này, ông Yu Hwan Koh giải thích thêm với AFP: « Các nước khác nhau có nghĩa vụ phải tuân thủ nghị quyết liên quan đến lệnh trừng phạt nhắm vào Bắc Triều Tiên, vì vậy có thể nói rằng bản thân các lệnh trừng phạt vẫn được giữ nguyên. Tuy nhiên, sẽ khó có thể xác nhận những lệnh trừng phạt đó được thực hiện một cách trung thực. »
Quyền phủ quyết của Nga rõ ràng đã mang đến cho Bình Nhưỡng những lợi ích ngoại giao hiếm có, một tín hiệu mạnh mẽ cho lãnh đạo Kim Jong Un, theo như phân tích của chuyên gia Olivier Guillard với RFI Tiếng Pháp :
« Tại Bình Nhưỡng, họ chắc chắn cảm thấy có thể tuyên bố"chúng ta sẽ có thể tiếp tục làm ăn với chế độ Nga", cụ thể là trao đổi hay gởi hàng ngàn, hàng chục ngàn container vũ khí, đạn dược cho quân đội Nga. Đổi lại, họ sẽ có được kỹ nghệ đạn đạo hay những kỹ thuật tiên tiến để mà Bình Nhưỡng có thể tiếp tục theo đuổi cuộc chạy đua điên cuồng về tên lửa đạn đạo và hạt nhân ».
Tập Cận Bình và nỗi lo về quan hệ Nga – Triều
Bài phân tích trên trang Nikkei Asia (04/04/2024) còn chỉ ra rằng, mối quan hệ giữa Vladimir Putin và Kim Jong Un không chỉ mang tính chất giao dịch, mà còn là một mệnh lệnh chiến lược rõ ràng để hợp tác cùng nhau. Ở cấp độ vĩ mô, hai quốc gia này cùng với Trung Quốc và Iran tìm cách tạo ra một khối chính trị, kinh tế và an ninh, thay thế cho trật tự tự do, dựa trên những luật lệ, do phương Tây lãnh đạo. Việc Bắc Triều Tiên và Nga nằm trong số những quốc gia bị trừng phạt nặng nề nhất, đã tạo thêm một lô-gic cho sự hợp tác của đôi bên.
Ngoài ra, còn có một số lợi ích địa chiến lược không thể phủ nhận đối với Bắc Triều Tiên trong việc giữ chân Hoa Kỳ sa lầy ở Ukraina, trong khi Bình Nhưỡng thu hút sự chú ý bằng cách chế tạo tên lửa và các chương trình hạt nhân. Tương tự, Matxcơva có lợi trong việc khiến Washington phải lo lắng về tình hình bán đảo Triều Tiên nhằm giảm bớt sự tập trung chặt chẽ của Mỹ tại Ukraina. Có thể nói, quỹ đạo hiện tại của mối quan hệ Nga – Triều là hoàn toàn bất lợi cho Mỹ và các đồng minh.
Dù vậy, Nikkei Asia vẫn có chút lạc quan tin rằng, trong ván cờ này, Washington chưa hẳn là mất tất cả. Trong mối quan hệ phiêu lưu này với Bình Nhưỡng, dường như tổng thống Nga cũng phải cẩn trọng trong việc hỗ trợ chế tạo vũ khí cho chế độ Kim Jong Un, đặc biệt là trong lĩnh vực hạt nhân, e ngại rằng ông có thể vô tình chọc tức Tập Cận Bình, vốn dĩ chỉ muốn hòa bình và ổn định ở Đông Bắc Á.
Điều này giải thích vì sao cho đến nay, Tập Cận Bình vẫn do dự trong việc cung cấp hỗ trợ quân sự đáng kể cho Nga tại Ukraina và tránh ủng hộ các chương trình hạt nhân cũng như tên lửa đạn đạo của Bắc Triều Tiên. Thế nên, theo báo Pháp Le Figaro ngày 02/04/2024, Tập Cận Bình trong chiến lược cường quốc hòa bình của ông đang theo dõi sát mối quan hệ ngoại giao và những lời đồn thổi về cuộc gặp thượng đỉnh Vladimir Putin – Kim Jong Un. Tờ báo đặt câu hỏi : « Liệu Vladimir Putin có sẽ đến Bắc Kinh trước khi đến Bình Nhưỡng hay không ? »
Về phần mình, Kim Jong Un phải phân bổ số đạn dược gởi đến Nga để bảo đảm năng lực quân sự sẵn sàng chiến đấu với Hàn Quốc và Mỹ nếu có xảy ra xung đột.
Do đó, mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Nga và Bắc Triều Tiên khó có thể mang tính quyết định đối với cả hai bên. Tuy nhiên, vào thời điểm này, cùng với quyền phủ quyết của Nga, bất kỳ tiến bộ công nghệ nào trong chương trình quân sự của Bắc Triều Tiên đều gây lo ngại, Nikkei Asia kết luận.
(Nguồn AFP, Reuters, Nikkei Asia và RFI)
Thu, 11 Apr 2024 - 95 - Tại Niger, Hoa Kỳ bị Nga "phục kích"
Bất chấp những nỗ lực ngoại giao và thái độ hòa hoãn của Washington kể từ sau cuộc đảo chính tháng 7/2023, chính quyền quân sự Niger ngày 16/03/2024 đơn phương thông báo, « có hiệu lực ngay lập tức », hủy bỏ thỏa thuận quân sự với Hoa Kỳ, đồng thời bày tỏ mong muốn tăng cường hợp tác với Nga. Thông báo này phải chăng là dấu hiệu sang trang sự hiện diện của phương Tây tại vùng Sahel của châu Phi?
Thỏa thuận SOFA
Ngược dòng thời gian, ngày 06/07/2012, chính phủ tổng thống Mahamadou Issoufou đã thông qua thỏa thuận hợp tác quân sự, có tên gọi là SOFA, với Mỹ. Chương trình này bao gồm đào tạo và hỗ trợ cho lực lượng Niger trong cuộc chiến chống khủng bố. Trên làn sóng đài phát thanh France Culture ngày 20/03/2024, nhà nghiên cứu Nina Wilèn, giám đốc chương trình châu Phi, Viện Egmont, lưu ý thêm rằng quan hệ hợp tác giữa Mỹ và Niger đã có từ những năm đầu thập niên 2000:
« Giữa Mỹ và Niger đã có một số hình thức hợp tác khác nhau. Đặc biệt là thỏa thuận 2012, cho phép các binh sĩ Mỹ được tự do di chuyển trên lãnh thổ Niger, điều này là thông thường. Nhưng Niger cũng tham gia nhiều sáng kiến trong vùng mà Mỹ khởi xướng từ hơn 20 năm qua. Vào năm 2003, Hoa Kỳ đã bắt đầu sáng kiến gọi là sáng kiến Pan-Sahel, để đào tạo và trang bị vũ khí cho quân đội bốn nước vùng Sahel, trong đó có Niger. »
Hiện tại, hơn 1.000 quân nhân Mỹ, phần lớn là các thành viên lực lượng không quân trú đóng ở căn cứ không quân 201 ở Agadez, cách thủ đô Niamey 1.000 km về phía bắc. Cơ sở này được Mỹ xây dựng từ năm 2016 với một nguồn kinh phí lên đến khoảng hai trăm triệu đô la.
Tại khu phức hợp bao la này, Hoa Kỳ bố trí nhiều drone vũ trang Reaper MQ-9 công nghệ cao, được dùng cho các hoạt động giám sát một phần vùng Sahel cũng như là Libya. Căn cứ này cũng có thể tiếp nhận các loại máy bay vận tải C-17 để vận chuyển quân và trang thiết bị.
Niger trách gì ở Mỹ ?
Thông báo hủy bỏ thỏa thuận quân sự được đưa ra hai ngày sau chuyến thăm Niamey của một phái đoàn Mỹ bao gồm trợ lý ngoại trưởng phụ trách các vấn đề châu Phi, Molly Phee, người đồng cấp bộ Quốc phòng Celeste Wallander và người đứng đầu Bộ Tư lệnh Mỹ tại châu Phi (AFRICOM), Michael Langley. Theo bộ Ngoại Giao Mỹ, bộ ba này tới Niamey để thảo luận về việc đưa Niger « quay trở lại con đường dân chủ và tương lai của quan hệ đối tác của đôi bên trong lĩnh vực an ninh và phát triển. »
Nhưng rốt cuộc, chuyến đi này kết thúc trong tủi nhục. Được thủ tướng Niger Lamine Zeine tiếp đón, phái đoàn Mỹ đã phải đợi lâu hơn một ngày so với dự kiến, để rồi bị từ chối gặp người đứng đầu tập đoàn quân sự, tướng Abdourahamane Tiani, mà không được nêu lý do chính thức.
Hai ngày sau, Niamey giáng tiếp cho Washington một đòn, đơn phương thông báo hủy bỏ « có hiệu lực ngay lập tức, thỏa thuận có liên quan đến quy chế quân nhân Mỹ và các nhân viên dân sự của bộ Quốc Phòng Mỹ trên lãnh thổ Niger ». Chính quyền quân sự Niger, qua lời phát ngôn viên, đại tá Amadou Abdramane, mạnh mẽ tố cáo thỏa thuận quân sự này là « không công bằng », chỉ « đơn giản được đưa ra bằng lời », và do Washington « đơn phương áp đặt ».
Theo những lời chỉ trích của Niger, thỏa thuận này buộc họ phải chi trả các khoản chi phí có liên quan đến thuế đối với máy bay Mỹ, tiêu tốn của nước này nhiều tỷ đô la. Niger tố cáo Mỹ « đơn phương hành động », khi không cung cấp thông tin về quân số và các loại thiết bị mà Mỹ triển khai trên lãnh thổ. Hội đồng Quốc gia Bảo vệ Tổ quốc (CNSP) còn cho rằng sự hiện diện của Mỹ trên lãnh thổ Niger là « bất hợp pháp » và « vi phạm mọi quy tắc Hiến pháp và dân chủ ».
Nhưng giới quan sát cho rằng còn có những nguyên nhân khác. Ban châu Phi đài RFI dẫn một nguồn tin từ bộ An Ninh Niger giải thích quyết định trên được đưa ra là do thái độ « không hợp tác »của Mỹ về chống khủng bố. Theo nguồn tin này,« hiện có khoảng 1.000 binh sĩ Mỹ ở Niger. Họ có drone, và nhiều thiết bị tinh vi khác. Nhưng họ lại từ chối chia sẻ thông tin với chúng tôi về các hoạt động di chuyển của quân khủng bố. Thật là quá đáng ! »
Mỹ can thiệp vào chính sách đối ngoại của Niger ?
Ngoài việc trách cứ phái đoàn Mỹ có thái độ « bất lịch sự » trong cuộc trao đổi khi hối thúc tập đoàn quân sự « làm mọi cách để thúc đẩy tiến trình chuyển tiếp dân chủ », một điểm khác trong cuộc thảo luận này đã dẫn đến việc cắt đứt quan hệ : Đối tác ngoại giao và chiến lược của Niger.
Trong cuộc trao đổi, phái đoàn Mỹ một mặt đàm phán về việc duy trì căn cứ quân sự Mỹ ở Agadez, nhưng mặt khác Washington bày tỏ quan ngại về đà tiến của Matxcơva tại châu Phi, đặc biệt là tổ chức bán quân sự Wagner. Từ nhiều tháng qua, Mỹ tìm cách thuyết phục Niger không nên đi theo gót chân của Mali.
Hoa Kỳ cảm thấy bất an trước việc Niger hồi tháng 9/2023 xích lại gần với Mali và Burkina Faso, hai nước cũng do tập đoàn quân sự lãnh đạo sau các cuộc đảo chính, và tham gia vào Liên minh các Quốc gia vùng Sahel, rồi trước việc Niger chấm dứt hai thỏa thuận quốc phòng với Liên Hiệp Châu Âu, và nhất là trong cùng giai đoạn này, chính quyền chuyển tiếp Niger đã tiếp một phái đoàn Nga.
Không chỉ với Nga, mối quan hệ mà giới quân sự Niger duy trì với Iran cũng là một điểm gây căng thẳng. Nhà báo Serge Daniel, chuyên gia về vùng Sahel, trả lời ban châu Phi kênh truyền hình quốc tế TV5 Monde nhắc lại thủ tướng Niger hồi cuối tháng 01/2024 dẫn đầu một phái đoàn đến Teheran để thảo luận các vấn đề về năng lượng hiện tại ở Niger.
Nhà báo Serge Daniel giải thích : « Có tin đồn về việc Iran cung cấp các máy phát điện cho Niger để nước này đối phó với khủng hoảng năng lượng. Đổi lại, Iran dường như đã đề nghị Niger cung cấp uranium. Hoa Kỳ đã nêu ra vấn đề này, và điều đó chắc chắn đã không làm họ hài lòng. »
Trong bài phát biểu trên truyền hình, phát ngôn viên chính quyền quân sự Amadou Abdramane đã xem là « dối trá » những cáo buộc của Mỹ rằng Niger đã âm thầm ký kết một thỏa thuận về uranium với Cộng hòa Hồi giáo Iran.
Hệ quả nào cho Mỹ và Niger ?
Theo phân tích từ một chuyên gia về Niger xin ẩn danh với kênh truyền hình France 24, giới quân sự cầm quyền và những phe ủng hộ họ dường như đánh giá cao lập trường của Mỹ khi kêu gọi ưu tiên con đường ôn hòa trước kế hoạch can thiệp quân sự của CEDEO. « Nhưng rõ ràng Mỹ đã không hiểu rằng Niamey, cũng như là Bamako và Ouagadougou, kể từ nay không muốn bị ai chỉ bảo, không theo bất cứ ai. »
Một quan điểm cũng được nhà nghiên cứu Nina Wilèn, giáo sư ngành khoa học chính trị trường đại học Lund, đồng chia sẻ trên đài France Culture, khi cho rằng có một xu hướng xoay lưng lại với phương Tây ở vùng Sahel.
« Thật sự có một mong muốn thoát khỏi tất cả các loại thỏa thuận có thể được hiểu là hạn chế quyền tự quyết của họ. Vì vậy, có một mong muốn mãnh liệt chứng tỏ rằng họ có quyền lực, rằng họ có quyền tự quyết và trên hết còn có một mong muốn duy trì quyền lực. Và do vậy, cần phải ở lại, không tiến tới chuyển tiếp hoặc tổ chức bầu cử mà họ có thể thua.
Vì vậy, nếu có bầu cử ở một trong ba nước này, đó sẽ là một cuộc bầu cử bị thao túng rất nhiều ngay từ đầu, nhưng chúng ta cũng có thể nói rằng cho đến lúc này có một bộ phận người dân đang ủng hộ sự thay đổi này. Dù vậy, ý tưởng ở đây là vẫn duy trì quyền lực và đây là những điều mà Nga có thể cung cấp cho phe quân sự, những điều mà phương Tây không thể đưa ra những đề nghị rõ ràng như thế đối với giới quân sự. »
Hệ quả nào cho Niger và Hoa Kỳ ? Nhà nghiên cứu Paul-Simon Handy, giám đốc Viện Nghiên cứu An ninh (ISS) tại Addis-Abeba, thủ đô Ethiopia, trả lời ban châu Phi đài RFI, nhận định, về phía Niger, quân đội nước này có thể mất đi một nguồn hỗ trợ hậu cần quan trọng: « Quân đội Niger được trang bị nhiều phương tiện không vận, các chiếc máy bay C-130 có vai trò quan trọng trong tất cả các chiến dịch quân sự ». Hoa Kỳ cũng có thể có những thái độ cứng rắn và trả đũa kinh tế và chính trị.
Đối với Mỹ, trên bình diện chiến lược, thông báo này của chính quyền quân sự Niamey là một đòn đau cho Bộ Tư Lệnh Châu Phi Hoa Kỳ (AFRICOM), do việc căn cứ Agadez là căn cứ quân sự quan trọng lớn thứ hai của Mỹ tại châu Phi, chỉ sau căn cứ Djibouti.
« Căn cứ drone này đương nhiên giúp Mỹ thu thập thông tin tình báo và những thông tin hữu ích cho cuộc chiến chống các nhóm cực đoan bạo lực, nhưng chắc chắn cũng để chống lại tất cả các đường dây buôn lậu và di dân bất hợp pháp.
Người ta đương nhiên cũng nghĩ đến Lybia. Ở biên giới Niger với Lybia cũng vậy. Niger chắc chắn mất đi một phương tiện quan trọng để có được các thông tin về những gì đang diễn ra ở biên giới với Libya. Còn Mỹ cuối cùng sẽ bị mất đi một nguồn thông tin tình báo to lớn về hoạt động tại Libya và xung quanh Libya. »
Hiện tại chính quyền Biden chưa có phản ứng gì ngoài ý kiến của phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Mỹ Matthew Miller trên mạng xã hội X. Ông cho biết Washington đã « lưu ý đến thông cáo báo chí của CNPS và thảo luận thẳng thắn về mối quan ngại của Mỹ » liên quan đến « quỹ đạo » của chính quyền. Ông nói thêm rằng Hoa Kỳ vẫn đang liên lạc với chính quyền và sẽ cung cấp thêm thông tin « nếu cần thiết ».
Nga phục kích
Theo AFP, sự việc cũng cho thấy rõ Nga đang tiến các quân cờ của họ tại châu Phi. Trong thế phục kích, Matxcơva chực chờ chớp lấy thời cơ tại khu vực. Chính sách của Nga đối với châu Phi không những đầy tham vọng, mà ngày càng được thể hiện một cách công khai. Giữa Niamey và Matxcơva dường như đã có một hình thức đồng thuận nào đó. Nếu như tính thích đáng của mối liên minh với Nga đang làm dấy lên các cuộc tranh luận tại Niger, bà Nina Wilèn cho rằng nên đặt sự việc trong một bối cảnh địa chính trị rộng lớn.
« Vì vậy, ở Mali, chúng tôi biết rằng có ít nhất từ 1.000 – 1.500 binh sĩ Wagner, tổ chức bán quân sự có liên quan đến Prigozine, vẫn đang tiếp tục chiến đấu chống các nhóm thánh chiến và quân khủng bố phi nhà nước khác nhau. Gần đây, nhóm Wagner cũng đã sở hữu một mỏ vàng Intahaka ở Mali. Điều này là quan trọng vì chúng có nghĩa là người Nga sẽ ở đó lâu dài. Tương tự ở Burkina Faso. Kể từ tháng 01/2024, đã có ít nhất từ 100 – 200 quân Nga. Bây giờ, họ đổi tên và định dạng lại Wagner, được gọi là Afrika Korps – Quân đoàn Châu Phi.
Cái tên quyến rũ này có từ Đệ Nhị Thế Chiến – Afrika Korps của Đức ở Bắc Phi – nhưng bất kể người ta gọi là gì, những đội quân này có liên hệ trực tiếp đến bộ Quốc Phòng Nga. Họ không còn nói đến lính đánh thuê nữa, người ta nói nhiều đến tầm ảnh hưởng tiềm ẩn. Đây thực sự là một chiến lược rõ ràng nhằm mở rộng ảnh hưởng của Nga tại châu Phi rộng lớn hơn và bây giờ là rõ ràng ở vùng Sahel. »
Để thay cho lời kết luận, tuần báo Pháp Courrier International ngày 18/03/2024, lược dịch bài viết đăng trên trang « Aujourd’hui au Faso », tạm dịch là « Ngày nay ở Faso », có tựa đề « Niger cắt cuống rốn quân sự với Mỹ ». Trên trang mạng Jeune Afrique, đi kèm với bài bình luận có tiêu đề « Niger của Tiani xoay lưng lại với Mỹ » là bức biếm họa : Một bên là ảnh chú Sam năm 2012, cau mày nghiêm mặt chỉ tay nói rằng « You Need Me – Mày cần tao ». Sát cạnh là chú Sam 2024, mười hai năm sau, đôi mắt tròn xoe ngơ ngác, mồ hôi đầm đìa đứng trước một ông tướng Niger thân hình to béo, ngón tay chỉ ngược vào mình run rẩy hỏi « You don’t want me ? – Ông không cần đến tôi à ? ». Có lẽ tấm ảnh này đã nói lên được nhiều điều, xin miễn bình luận !
Thu, 04 Apr 2024 - 94 - Chiến tranh Ukraina : Hồi kết cho « cơn mê đắm say Nga » của Pháp ?
Nếu cuộc chiến xâm lược Ukraina của Nga làm lộ rõ sự phụ thuộc khí đốt của Đức vào Nga, thì cuộc xung đột này cũng đã « lột trần » một dạng lệ thuộc khác tại Pháp : Nỗi đắm say nước Nga. Sự thay đổi lập trường trong các phát biểu của tổng thống Pháp Emmanuel Macron, từ việc « chớ nên hạ nhục nước Nga » cho đến « Kremlin không nên thắng cuộc chiến này », cho thấy Paris đang nhọc nhằn đoạn tuyệt với Matxcơva như thế nào !
Ngày 14/03/2024, trong cuộc trả lời phỏng vấn trên hai kênh truyền hình TF1 và France 2, tổng thống Pháp Emmanuel Macron tuyên bố, « chúng ta không muốn leo thang, chúng ta không có chiến tranh với Nga, nhưng chúng ta không nên để Nga giành thắng lợi ». Một lần nữa nguyên thủ Pháp nhấn mạnh rằng việc gởi binh sĩ đến Ukraina, « tuy không là điều ông mong muốn », nhưng « tất cả những giải pháp này đều có thể », và điều quan trọng là không nên tỏ ra « yếu thế » trước Matxcơva.
Khác với cách nay gần hai năm, chủ nhân điện Elysée vẫn bày tỏ mong muốn đối thoại với Nga. Câu nói nổi tiếng « chớ nên hạ nhục nước Nga » mà ông phát biểu trước Nghị Viện Châu Âu ở Strasbourg, đông bắc nước Pháp ngày 09/05/2022 đã khiến các nước Đông Âu bị sốc và làm dấy lên nhiều chỉ trích. Tại Pháp, tuần báo L’Express có bài giải mã đề tựa « Vì sao Macron tốt nhất nên im lặng ». Làm thế nào giải thích cho sự « bẻ lái » đột ngột này của nguyên thủ Pháp ?
Paris chọn Matxcơva!
Elsa Vidal, trưởng ban biên tập RFI Tiếng Nga, trong cuộc trao đổi dành cho RFI Tiếng Việt, thừa nhận bà không thể giải thích cho sự thay đổi thái độ đột ngột này từ tổng thống Pháp, nhưng động thái này khẳng định xu hướng Emmanuel Macron đang đưa nước Pháp thoát ra khỏi mối quan hệ truyền thống ưu tiên Pháp – Nga.
Elsa Vidal : « Vào tháng 6/2023, tại Bratislava, Emmanuel Macron đã có bài phát biểu lời lẽ cứng rắn hơn đối với Nga. Trong bài phát biểu này, ông ấy nhìn nhận tầm quan trọng những gì mà các nước biên giới với Nga phải trải qua. Đó là những nước hoặc bị Nga chiếm đóng trong suốt thời kỳ Liên Xô, hoặc bị Nga thống trị dưới thời Sa hoàng. »
Liệu đó có là hồi kết cho một chương dài thân Nga ? Bởi vì, từ hơn nửa thế kỷ qua, « Paris đã chọn Matxcơva », Elsa Vidal đã mở đầu như thế trong tập sách « Mê đắm nước Nga. Ba mươi năm chính sách"chiều lòng"Nga của Pháp ». Nga chiếm một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Pháp đến mức đôi khi mù quáng. Từ Emmanuel Macron, cho đến Nicolas Sarkozy, xa hơn nữa là Jacques Chirac, François Mitterand… Paris luôn tìm cách « reset » – làm mới lại – mối quan hệ với Matxcơva. Một chính sách gần như là « bất di bất dịch ».
Elsa Vidal : « Điều làm cho tôi ngạc nhiên khi viết tập sách này, tôi chợt nhận ra rằng, ngoại trừ nhiệm kỳ tổng thống François Hollande, lập trường của tất cả các tổng thống Pháp từ khi Nga tiếp nối Liên Xô là hầu như không thay đổi. Lập trường này xem Nga như là một phương cách để cố gắng cân bằng ảnh hưởng của Mỹ, một sức ảnh hưởng mà Pháp cho là quá mức và nguy hiểm cho quyền tự quyết của Pháp. Đây là một truyền thống mà người ta thường cho là thuộc trường phái De Gaulle – Mitterand. Đây chính là những gì cựu ngoại trưởng Hubert Védrine, thời tổng thống François Mitterand, đã từng nói đến. Hubert Védrine hiện vẫn là một nhân vật rất có ảnh hưởng trong lĩnh vực quan hệ quốc tế. »
« Chớ hạ nhục nước Nga ! »
Chính sách này bắt đầu từ ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến và đầu thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Trong mong muốn tìm lại tầm ảnh hưởng, một vị thế trên trường quốc tế và nhất là trong tư tưởng bài Mỹ mạnh mẽ, tướng De Gaulle năm 1966 đã đưa ra một chính sách được thể hiện rõ qua ba thuật ngữ « Lắng nghe, Hòa dịu, Hợp tác », vạch ra những nguyên tắc cơ bản cho mối quan hệ mà Paris muốn thiết lập với Matxcơva. Di sản này có một sức ảnh hưởng to lớn trong đời sống chính trị, một « kim chỉ nam » cho nền ngoại giao Pháp trong mối quan hệ với Nga, được hầu hết các đảng phái chính trị Pháp bám lấy suốt hơn nửa thế kỷ qua.
François Mitterand có lẽ là người bám chặt nhất tư tưởng này của tướng De Gaulle khi chủ trương một chính sách « Bạn bè, Đồng minh nhưng không Liên kết » với Mỹ. Paris mong muốn là một nước « trung gian tất yếu » giữa Đông và Tây, theo như nhận xét của Marie-Pierre Rey, nhà sử học, chuyên gia về quan hệ Pháp - Nga với Elsa Vidal (trang 45). Nhưng đến thời Jacques Chirac, Paris như một kẻ yêu say đắm Matxcơva. Ưu tiên cho mối quan hệ với Nga, Pháp đôi khi không ngần ngại đi trái ý, gây bất lợi cho các nước đồng minh, mà cuộc chiến tranh tàn khốc ở Chechnya là một ví dụ điển hình.
Nên khi nói rằng « chớ nên hạ nhục nước Nga », Emmanuel Macron chưa phải là người đầu tiên thốt lên câu nói này. Năm 1995, tại thượng đỉnh nhóm G7 tổ chức Halifax, New Scotland, Canada, Jacques Chirac đã cho rằng xung đột ở Chechnya là « chuyện nội bộ » của Nga, và có lời cảnh cáo các đồng nhiệm rằng « hãy cẩn thận đừng bao giờ làm nhục nước Nga ».
Elsa Vidal : « Trong số các lãnh đạo Pháp, người đầu tiên nói về sự hạ nhục này là ông Jacques Chirac, người"yêu say đắm"nước Nga nhất. Ông ấy biểu hiện sự gắn bó này qua văn hóa Nga, vốn là một lá chủ bài thật sự của Nga trên trường quốc tế. Jacques Chirac đã có những phát biểu rất mạnh mẽ như thế trên trường quốc tế khi nói rằng không phải bởi vì Nga đang trải qua một giai đoạn suy yếu mà nước này ngưng là một nước vĩ đại, vì thế không nên hạ nhục Nga. Nói một cách khác, chúng ta có nguy cơ gánh lấy những hệ quả khủng khiếp.
Emmanuel Macron, ông ấy cũng đi theo truyền thống đó. Cũng cần nói thêm rằng phát biểu về sự sỉ nhục này, trước hết là một diễn ngôn do các lãnh đạo Nga tạo ra để giải thích cho mong muốn tìm lại thế mạnh của họ trên trường quốc tế. Chúng ta có thể hiểu được điều này, rằng Nga nuối tiếc thế mạnh mà họ đã có khi Liên Xô từng là một tiếng nói có trọng lượng trong các chương trình nghị sự thế giới và tự xem như là ngang vai ngang vế với cường quốc Mỹ. »
« Reset » và tham vọng cao của Emmanuel Macron
Elsa Vidal thừa nhận, ao ước tìm lại vị thế cường quốc và sức ảnh hưởng, không chỉ ở giới lãnh đạo Nga, đi đầu là ông Vladimir Putin, mà còn ở một bộ phận lớn cử tri Nga. Điều mà bà phê phán là một bộ phận giới tinh hoa Pháp sử dụng lại lập luận này như thể họ đang sử dụng quan điểm của Nga để giải mã các sự kiện.
Trong chính sách « Reset » này, Emmanuel Macron có lẽ là vị tổng thống năng động nhất. Ngay những ngày đầu nhiệm kỳ năm 2017, vị tổng thống trẻ tuổi nhất của nền Đệ Ngũ Cộng Hòa Pháp, không ngần ngại trải thảm đỏ, long trọng nghinh tiếp đồng nhiệm Nga Vladimir Putin tại cung điện Versailles tráng lệ. Tham vọng là nhằm xây dựng lại quan hệ Pháp – Nga đã bị rạn nứt từ sau vụ sáp nhập bán đảo Crimée, vượt qua những chia rẽ giữa phe mang tư tưởng Đại Tây Dương và bên chủ nghĩa hiện thực, chủ trương tự chủ, cũng như là chia rẽ giữa phe thân Nga và chống Nga.
Elsa Vidal : « Vào thời điểm đó, cách tiếp cận của Emmanuel Macron quả thực là một phần trong truyền thống lâu đời. Đầu tiên, đơn giản nhất là truyền thống của Mỹ. Năm 2013, Barack Obama đã cố gắng tái khởi động quan hệ với Nga nhưng không thành công. Tôi nghĩ rằng ông Macron muốn thành công ở điểm mà Obama đã thất bại.
Rồi trong truyền thống Pháp, trong các nghiên cứu mà tôi thực hiện cho tập sách, tôi phát hiện ra rằng chiến lược « Reset » đầu tiên, ý định tái khởi động quan hệ đầu tiên với Nga đã diễn ra vào năm 1867 ở Paris. Vào thời điểm đó, Pháp và đế chế Sa hoàng lo lắng trước đà gia tăng sức mạnh của Phổ, sau này là nước Đức. Cả hai nước tự nhủ rằng thật là đáng tiếc nếu không liên kết để có thể chống Đức.
Chính ở điểm này mà Nga hay Liên Xô từng được một số nước, đặc biệt là Pháp xem như là một liên minh ngược, nghĩa là để đối trọng với cường quốc Đức, rồi chống lại hay cân bằng cường quốc Mỹ. Truyền thống này đã được hình thành ở Pháp, và là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong chính sách đối ngoại của Pháp mà tôi có dịp nhận thấy qua cuốn sách này. Chủ nghĩa chống Mỹ, tôi không nói là tất cả, nhưng ngự trị một phần lớn trong các chính đảng Pháp. »
Pháp – Nga cùng cảnh ngộ : Nỗi hoài niệm về một đế chế xa xưa ?
Cũng giống như nhiều nhà quan sát khác, Elsa Vidal, cho rằng Pháp theo đuổi chính sách « Reset » với Nga còn vì Paris và Matxcơva có một gạch nối chung : Nỗi hoài niệm về một tầm ảnh hưởng đã mất.
Elsa Vidal : « Tại Pháp, việc người ta có thể dễ dàng sử dụng thuật ngữ"hạ nhục" từ phía Nga là bởi vì Pháp cũng là một cựu đế chế, và việc mất đế chế này vẫn bị tiếc nuối bởi nhiều chính khách Pháp cũng như là một số người Pháp, những người sinh ra vào thời điểm mà Pháp vẫn còn đế chế thuộc địa.
Tôi nghĩ đến những người còn biết đến chế độ thuộc địa gần đây nhất, bị tan rã trong những năm 1960 sau những cuộc chiến tranh giành độc lập. Tôi cho rằng chính vì một bộ phận cử trị Pháp và nhiều chính khách Pháp vẫn còn hoài niệm về tầm vĩ đại, thế mạnh và đế chế mà họ có một sự đam mê đối với mô hình Nga bởi vì Nga cũng đã khôi phục được đế chế của mình lần đầu tiên vào năm 1917, sau khi chế độ Sa hoàng biến mất.
Những người Bôn-sê-vich đã tạo dựng lại đế chế dưới hình thức Liên Xô và vào năm 1992, sự biến mất của Liên Xô đã mở ra một giai đoạn mới với việc tìm kiếm một tầm ảnh hưởng mà đế chế thuở xưa đã có. Và người ta đã thấy điều đó qua năm cuộc chiến tranh do Nga tiến hành, không chỉ do ông Putin thực hiện. Do vậy, người Pháo đôi khi cũng rất lắng nghe các phát biểu từ Nga bởi vì Pháp cũng vậy, Pháp có một sức mạnh to lớn và thật khó mà từ bỏ thế mạnh đó. »
Chỉ có điều, đây là một mối tình đơn phương, Paris « say đắm » nhìn Matxcơva, nhưng nước Nga của Vladimir Putin lại có một mục tiêu cao hơn để đeo đuổi. Nếu như Paris xích lại gần Matxcơva để cân bằng quan hệ với Washington thì, Nga chỉ muốn thu hút sự quan tâm của Mỹ. Trang 34, Elsa Vidal viết : « Một điều chắc chắn là Vladimir Putin nỗ lực tìm lại vị thế có thể đối xử ngang vai ngang vế với Mỹ trong nhiều hồ sơ quốc tế. Về phía châu Âu, ông ấy không trông đợi cũng không mong mỏi điều gì nhưng sẽ nắm bắt lấy những cơ hội nào chúng ta trao tặng cho ông. »
Mục tiêu không đạt được Nga chủ động nói lời giã biệt ? Giới quan sát thật sự bị sốc khi nhìn thấy hình ảnh một chiếc bàn dài 4 mét ngăn cách tổng thống Nga Vladimir Putin với đồng nhiệm Pháp Emmanuel Macron tại điện Kremlin vài ngày trước khi Nga quyết định tấn công Ukraina. Cuộc chiến này phải chăng đã bộc lộ thất bại chính sách « Reset » của Pháp ?
Tổng biên tập RFI Tiếng Nga lạc quan đánh giá đấy chưa hẳn là một thất bại hoàn toàn. Nhưng trước sự thay đổi thái độ của Pháp hiện nay vào thời điểm phương Tây đang đối đầu với Nga, theo đúng lô-gic, Elsa Vidal dự đoán, Nga rất có thể sẽ có những hành động trừng phạt. Pháp ngày càng trở thành một mục tiêu tấn công trong chính sách gây bất ổn của Nga. Bà cũng cẩn trọng trước việc cho rằng Pháp đã hoàn toàn thay đổi lập trường. Thời gian sẽ cho biết liệu Paris có lý hay không !
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn Elsa Vidal, trưởng ban biên tập RFI Tiếng Nga đã tham gia chương trình.
Thu, 28 Mar 2024 - 93 - Đức : Khi đầu tầu kinh tế của châu Âu « mệt mỏi »…
Nước Đức đang gặp bất ổn. Kinh tế trì trệ do tăng trưởng bị suy giảm. Chính trường Đức bị phân mảnh và phân hóa sâu sắc. Gần đến kỳ bầu cử Nghị Viện Châu Âu và bầu cử vùng tại Đức, AFD, đảng cực hữu dường như đã thu hút được khoảng 20% ý định bỏ phiếu, theo một thăm dò. Liên minh cầm quyền tại Đức bên bờ tan vỡ và vị thế của thủ tướng Olaf Scholz đang bị lung lay. Phải chăng mô hình kinh tế - xã hội Đức đang đến hồi kết ?
Tại Diễn đàn Davos tháng 1/2024, bộ trưởng Tài Chính Đức, Christian Lindner phải thừa nhận « Đức không phải là một người bị bệnh mà là một người mệt mỏi sau giấc ngủ ngắn ». Quả thật, nước Đức thời hậu chiến chưa bao giờ bị căng thẳng như lúc này khi phải đối mặt với ba cuộc khủng hoảng cùng một lúc : Kinh tế, Xã hội và Chính trị.
AFD: Phe cực hữu trên đà tiến
Chưa có một thủ tướng Đức nào lại bị mất tín nhiệm nhiều như ông Olaf Scholz. Từ tháng Giêng 2024, chính phủ Đức đối mặt với nhiều cuộc đình công của nhân viên đường sắt, sự bất mãn của giới y sĩ và nhiều cuộc biểu tình quy mô lớn của nông dân và tài xế vận tải đường dài.
Trong khi đó, theo một thăm dò gần đây, đảng AFD ( Con đường khác cho nước Đức ) một đảng cực hữu hoài nghi châu Âu, bài di dân, dường như có được 20% ý định bỏ phiếu, chỉ đứng sau đảng Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo Đức ( 30% ý định bỏ phiếu ). Chính trường Đức còn bị phân mảnh khi có thêm một đảng chính trị bài di dân và thân Kremlin, nhưng thuộc cánh tả.
Trả lời RFI Tiếng Việt, nhà nghiên cứu Marie Krpata, Ủy ban Quan hệ Pháp – Đức, Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI) trước hết nhận định Đức đang đối mặt với nhiều thách thức to lớn.
Marie Krpata : « Đây là lần đầu tiên nước Đức có một liên minh ba đảng cầm quyền ở cấp liên bang gồm đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD), đảng Xanh và đảng Tự do Dân chủ (FDP) – tức những người chủ trương tự do kinh tế. Hiện Đức bị suy giảm tăng trưởng 0,3% và từ năm 2022 đến năm 2023, lạm phát là ở mức 6%. Vì vậy, liên minh ba mầu này, lên cầm quyền năm 2021, trong thỏa thuận liên minh, từng dự trù một chính sách thiên nhiều về xã hội với việc tăng lương tối thiểu lên 12 euro/giờ, cũng như xây thêm 400 ngàn nhà ở, bao gồm cả nhà xã hội.
Nhưng chiến tranh Ukraina đã làm đảo lộn mọi ưu tiên. Tình hình hiện nay không giống như hồi năm 2021 và ngày nay Đức phải đối mặt với tình trạng lạm phát rất cao, giá năng lượng sẽ còn tăng lên và do vậy, có những tác động đến sức mua của các hộ gia đình và người dân buộc phải thắt lưng buộc bụng.
Quả thật, điều đó dẫn đến bất bình xã hội như những gì chúng ta đang thấy hiện nay với việc nông dân không hài lòng vì bị cắt hỗ trợ cho các phương tiện nông nghiệp. Rồi chúng ta còn thấy nhiều cuộc đình công chẳng hạn như của nhân viên đường sắt đòi tăng lương để phù hợp với mức lạm phát, hay đòi giảm giờ làm việc. »
Tăng trưởng giảm : Mô hình kinh tế Đức lỗi thời ?
Các số liệu thống kê vừa được công bố gần đây cho thấy, Đức là quốc gia duy nhất trong Liên Hiệp Châu Âu có nền kinh tế bị suy thoái : GDP giảm mất 0,3% trong quý IV/2023. Nguyên nhân là vì, tuy có một nền kinh tế rất cởi mở, tập trung chủ yếu vào xuất khẩu, Đức lại phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu của Đức sang Trung Quốc giai đoạn 2022 – 2023, đã bị giảm mất 9%.
Theo giải thích của Marie Krpata, chiến tranh tại Ukraina đã làm lộ rõ những « khuyết tật » của mô hình kinh tế và công nghiệp Đức.
Marie Krpata : « Quả thực Đức có một nền công nghiệp rất mạnh. Đó là những ngành công nghiệp lớn sử dụng nhiều năng lượng, tạo nên những nét đặc trưng của mô hình kinh tế Đức, cụ thể là công nghiệp hóa học, công nghiệp sản xuất nhôm và thép. Đương nhiên đây là những lĩnh vực bị tác động nhiều nhất do giá năng lượng tăng. Vì buộc phải từ bỏ nguồn năng lượng của Nga, Đức phải tìm kiếm những nguồn cung mới, dù ở Hoa Kỳ, Bắc Âu hay trong Vùng Vịnh. Và đây là những nguồn cung năng lượng đắt đỏ gây khó khăn cho sức cạnh tranh của mô hình kinh tế Đức.
Ngoài ra, Đức còn phải đối mặt với tình trạng các đối tác thương mại nhưng cũng là các đối thủ cạnh tranh chính như Trung Quốc, Hoa Kỳ đang trang bị cho mình các chính sách công nghiệp. Những nước này có xu hướng tự cung tự cấp và do vậy, thông qua Luật Chống Lạm Phát ở Mỹ hay như Made in China 2025 tại Trung Quốc, họ đề nghị một khung pháp lý có thể hấp dẫn đối với một số doanh nghiệp nhất định được thiết lập dựa trên cơ sở công nghiệp Đức. Ở đây, đúng là có một nỗi lo phi công nghiệp hóa, nỗi lo di dời hoạt động sản xuất sang các vùng khác trên thế giới. »
Không chỉ có công nghiệp. Giá năng lượng tăng cũng sẽ ảnh hưởng đến các hộ gia đình. Trong bối cảnh này, chính phủ Đức đã quyết định dành một khoản ngân sách 200 tỷ euro để hỗ trợ người dân đối phó với tình trạng tăng giá năng lượng cũng như lạm phát.
Nhập cư bất hợp pháp: Chủ đề gây căng thẳng
Trong chính sách di dân, chính phủ thủ tướng Olaf Scholz cũng đang hứng nhiều lời chỉ trích. Hiện tượng nhập cư bất hợp pháp tăng vọt từ hai năm qua, chủ yếu quả ngỏ Nga, Belarus, Hungary và Slovakia. Năm 2023, tỷ lệ đơn xin tị nạn ở Đức chiếm đến 1/3 trong toàn châu Âu, mà phần đông là người Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Afghanistan. Hệ thống tiếp nhận di dân tại nhiều địa phương ở Đức đã bị quá tải.
Vào năm 2015, thủ tướng Angela Merkel tuyên bố : « Chúng ta có thể làm được điều đó ». Câu nói này biểu tượng cho một xã hội rộng mở đối với di dân. Kể từ giờ, nước Đức siết chặt chính sách nhập cư. Văn hóa tiếp đón bị tan rã, người dân bức bối và di dân đang trở thành một chủ đề gây căng thẳng. Mô hình tiếp nhận dân nhập cư của cựu thủ tướng Đức Angela Merkel đang bị lỗi thời ?
Marie Krpata : « Hiện tại, câu hỏi đặt ra là làm thế nào hội nhập những người dó trên thị trường lao động của Đức ? Hơn nữa, từ năm 2022, với khoảng 1,4 triệu người tị nạn Ukraina, đã có rất nhiều người Ukraina tham gia thị trường lao động. Thế nên, hội nhập số người đó vào thị trường lao động cũng như hội nhập xã hội Đức là một vấn đề đang được đặt ra lúc này.
Như quý đài có nhắc đến đảng AFD ở phía trên, cách nay vài tháng đã xảy ra một vụ tai tiếng liên quan đến đảng này. Theo các tiết lộ, trong một cuộc họp bí mật của AFD ở Postdam, với sự hiện diện của nhiều lãnh đạo đảng cũng như là nhiều nhân vật cực hữu, vấn đề tái di dân đã được đề cập đến, chẳng hạn như tìm cách đẩy những người không phải là người Đức cũng như là những công dân Đức gốc nước ngoài ra khỏi nước Đức.
Vụ việc gây ầm ĩ. Rất nhiều người Đức đã xuống đường biểu tình trên khắp cả nước. Điều đó chứng minh rằng vẫn còn có một sự bền bỉ lớn, một sự năng động lớn của nền dân chủ tại Đức, một xã hội dân sự rất năng động. Nhưng quả thực, chúng ta cũng thấy có một xu hướng giống như của đảng cực hữu AFD, hiện đang thu hút được một ý định bỏ phiếu cao trong các thăm dò. »
Nếu như ở cấp độ liên bang, đảng này được 20% ủng hộ, thì tại các vùng ở phía Đông nước Đức, tỷ lệ này là 30%. Vào mùa thu này, các cuộc bầu cử vùng sẽ diễn ra ở các bang Thuringe, Saxes và Brandebourg, những bang ở phía Đông, nơi mà theo truyền thống các đảng cực hữu và cực tả luôn thu được kết quả cao.
Đầu tàu Đức mệt mỏi : Hậu quả nào cho Liên Âu?
Theo nhận định của nữ chuyên gia về quan hệ Pháp – Đức Marie Krpata với RFI Tiếng Việt, đà tiến này của AFD có thể sẽ có những tác động trong cuộc bầu cử Nghị Viện Châu Âu sắp tới. Với một chương trình tranh cử chủ trương giải thể Liên Hiệp Châu Âu, nghĩa là một châu Âu mà ở đó các quốc gia có chủ quyền, AFD thực sự là một mô hình trong số nhiều đảng khác trong khối Liên Âu.
Trong một bối cảnh địa chính trị căng thẳng đầy phức tạp do cuộc chiến tranh tại Ukraina, chính phủ Đức đang chịu nhiều áp lực và nước Đức đang gánh chịu toàn bộ hậu quả của cuộc chiến từ việc tăng giá năng lượng cho đến lạm phát …
Marie Krpata : « Nhiều ưu tiên ở Đức đã bị đảo lộn, nhất là trên phương diện an ninh và quốc phòng, khi đưa ra quyết định tăng ngân sách quốc phòng lên mức 2% của GDP để lập ra một quỹ đặc biệt trị giá 100 tỷ euro nhằm hiện đại hóa quân đội Đức (Bundeswehr). Trên bình diện năng lượng, Đức đã cho thấy sự kiên cường và thích ứng với việc từ bỏ phụ thuộc khí đốt Nga. Về kinh tế, nước Đức cũng phải tiến hành một số thay đổi nhất định nhằm giảm bớt tính chất dễ bị tổn hại trong mối quan hệ với các nước thứ ba.
Quả thật, Đức đang nỗ lực rút ra bài học kinh nghiệm về sự phụ thuộc vào Nga về năng lượng, bởi vì nước này lệ thuộc đến 55% khí đốt Nga khi chiến tranh bùng phát. Và đặc biệt, Đức cũng đang tìm cách rút kinh nghiệm trong mối quan hệ với Trung Quốc, bởi vì kinh tế Đức và kinh tế Trung Quốc có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Họ mong muốn đa dạng hóa các nguồn cung cũng như thị trường xuất khẩu, các đầu ra, không phạm lại những sai lầm tương tự như đối với Nga. »
Nhiều thách thức đang đặt ra cho nước nước Đức của ông Olaf Scholz. Nếu đầu tàu kinh tế của khối 27 nước này không thể vận hành tốt, Liên Hiệp Châu Âu có nguy cơ gánh lấy nhiều hệ quả nghiêm trọng, vì có rất nhiều nước trong khối xem Đức như là một đối tác thương mại chính. Và đây là một yếu tố không thể bỏ qua, theo như kết luận từ nữ chuyên gia về quan hệ Pháp – Đức Marie Krpata !
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn nhà nghiên cứu Marie Krpata, Viện Quan hệ Quốc tế IFRI, đã tham gia chương trình.
Thu, 21 Mar 2024 - 92 - « Trục kháng chiến » : Lá bài để Iran bành trướng ở Trung Đông
Xung đột giữa Israel và phe Hamas. Các cuộc tấn công tàu hàng của phe Houthis ở Hồng Hải. Căn cứ quân sự Mỹ ở Irak, Syria hay Jordani… bị pháo kích. Iran đang mở rộng ảnh hưởng tại Trung Đông và thậm chí xa hơn nữa. Đà bành trướng này được thực hiện thông qua các nhóm lực lượng vũ trang mà Iran đang kiểm soát ở Liban, Irak, Syria và tại Yemen. Làm thế nào Iran đã có thể thiết lập và điều khiển mạng lưới các nhóm vũ trang rộng lớn này ?
« Trục kháng chiến » chống Israel bắt đầu từ Iran, Syria, Hezbollah, tân chính phủ Irak và Hamas đi qua xa lộ Syria… Syria là điểm nút cho chuỗi kháng chiến chống Israel. Vào ngày 06/01/2012, ông Ali Akbar Velayati, cố vấn chính về đối ngoại bên cạnh Lãnh đạo Tối cao Iran, đã tuyên bố như trên.
Ba kẻ thù
« Trục kháng chiến » này là một trong những các thành tố cơ bản trong chính sách đối ngoại của Iran tại Trung Đông những năm gần đây. Trong nhãn quan chế độ Teheran thần quyền, « Đại Quỷ » Hoa Kỳ cùng với đồng minh « Tiểu Quỷ » Israel và Hồi Giáo hệ phái Sunni là ba kẻ thù chính. Ngoài ra, Cách mạng Hồi giáo Iran tự cho mình có trách nhiệm truyền bá hệ tư tưởng thần quyền cách mạng và đoàn kết các cộng đồng người Hồi Giáo hệ phái Shia xung quanh chế độ các giáo sĩ.
Nếu như tên gọi « Trục kháng chiến » có vẻ mang tính phòng thủ, trên thực tế, chiến lược của Cộng hòa Hồi giáo chủ yếu dựa vào chủ nghĩa bành trướng khu vực và mong muốn tiêu diệt Nhà nước Do Thái. Lòng căm thù phương Tây là « chất xúc tác » để kết nối các thành viên khác nhau cho « trục kháng chiến », từ Hezbollah Liban, cho đến Houthi ở Yemen, những nhóm vũ trang hệ phái Shia ở Afghanistan, Irak và người Palestine hệ phái Sunni.
Nhà địa chính trị Fabrice Balanche, giảng viên cao cấp trường đại học Lyon 2, chuyên gia về Trung Đông, trả lời phỏng vấn trang mạng Conflit của Pháp, nhận định thêm rằng Iran còn biết cách dựa vào cộng đồng người Shia, bị áp bức gần như ở khắp thế giới Hồi Giáo hệ phái Sunni, để thành lập các lực lượng dân quân vệ tinh của mình:
« Những khó khăn của cộng đồng người Hồi Giáo hệ phái Shia trong thế giới Ả Rập và các cuộc xung đột địa phương đã được Iran sử dụng một cách đáng kinh ngạc để thành lập các lực lượng dân quân phục vụ cho mình. Sự đoàn kết của người Hồi Giáo Shia là động lực chính cho sự bành trướng của Iran ở phía Đông. Những khó khăn đó càng kéo dài, các cộng đồng này càng hòa nhập vào hệ thống Iran và sự chia rẽ với người Hồi Giáo Sunni càng trở nên nghiêm trọng.
Chúng ta đã đạt đến điểm không thể vãn hồi, bởi vì nếu từ chối sự bảo vệ của Iran, cộng đồng người Hồi Giáo Shia sẽ phải chịu sự trả thù từ người Hồi Giáo Sunni, đặc biệt là thông qua các nhóm Hồi Giáo, như chúng ta đã thấy trong cuộc nội chiến ở Syria, nơi cộng đồng người Alawite là mục tiêu bị tấn công trước tiên của phe thánh chiến và phe nổi dậy người Hồi Giáo Sunni nói chung. »
Theo một nghiên cứu của Trung tâm Tư liệu trường Quân sự Pháp, được đăng tải hồi tháng 10/2021, việc hậu thuẫn những phe nhóm dân quân, phe nổi dậy phần lớn theo hệ phái Shia không những giúp Iran tiến các quân chốt trên bàn cờ địa chính trị tại Trung Đông, mà còn giúp chế độ Teheran tránh đối đầu trực diện với kẻ thù vượt trội về mặt quân sự.
Hasni Abidi, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về Thế giới Ả Rập và Địa Trung Hải (CERMAM), trên kênh truyền hình Public Senat, nhận định đây là một phần trong chiến lược bảo đảm an ninh mà chế độ Iran tìm kiếm kể từ cuộc xung đột với Irak trong những năm 1980:
« Iran hiểu rằng cách phòng thủ tốt nhất là dịch chuyển biên giới, chứ không đợi kẻ thù đến Iran. Tất nhiên, họ có chương trình tên lửa đạn đạo, rồi chương trình hạt nhân, vì họ hy vọng trong mọi trường hợp sẽ đạt được ngưỡng hạt nhân, nhưng trên hết là phải cung cấp cho khu vực một số lực lượng nhất định, mà một số người gọi là "bên ủy nhiệm", nhưng tôi cho rằng còn hơn thế nữa : Làm thế nào dịch chuyển các cuộc xung đột, một cuộc chiến ra ngoài biên giới Iran. »
Al-Qods và Qassem Soleimani : Những quân cờ chủ lực
Hầu như chỉ bao gồm các chủ thể phi nhà nước với năng lực bất cân xứng, « trục kháng chiến » này đã biết lợi dụng tình hình nội bộ bất ổn ở Irak (do cuộc chiến xâm lược của Mỹ, rồi do nội chiến) và tại Syria (nội chiến từ năm 2011) để tạo một hành lang trên bộ nối Iran đến bờ Địa Trung Hải của Liban. Hành lang trên bộ này giúp Iran được mở cửa, thay thế sự cô lập của quốc tế qua việc gia tăng ảnh hưởng trong khu vực.
Trong ván cờ này, lực lượng Al-Qods, được thành lập năm 1990 ngay sau cuộc chiến tranh Iran-Irak, là một quân cờ chủ lực. Đơn vị tinh nhuệ này, chỉ dành để thực hiện các chiến dịch ngoài lãnh thổ, trực thuộc Lực lượng Vệ Binh Cách Mạng, quân đội của Lãnh tụ Tối cao, và chỉ tuân theo mệnh lệnh của giáo chủ Ali Khamenei.
Bài nhận định về « Trục kháng chiến » của trường Quân sự Pháp cho biết lực lượng Al-Qods không hành động quân sự trực tiếp, mà chỉ là một lực lượng yểm trợ và hậu thuẫn cho các phe nhóm dân quân vũ trang nào được coi là đáng tin cậy nhất, để bác bỏ mọi cáo buộc nhắm trực tiếp vào Iran.
Do vậy, « nhiệm vụ của lực lượng này là xuất khẩu Cách mạng Hồi giáo ở Trung Đông, thành lập các lực lượng dân quân đối tác, sự hỗ trợ vật chất và tài chính, đào tạo và tư vấn. Nhấn mạnh vào việc học các kỹ thuật phi quy ước về chiến tranh, về khủng bố và tình báo (…)
Al-Qods đóng vai trò thiết yếu là điều phối các nhánh vũ trang thân Iran. Để thực hiện điều này, lực lượng Al-Qods được chia thành bốn bộ chỉ huy khu vực : Quân đoàn Ramazan (Irak), quân đoàn Rasulallah (Bán đảo Ả Rập), quân đoàn Levant (phụ trách Syria, Liban, Vùng lãnh thổ Palestine, Jordani và Israel) và quân đoàn Ansar (liên quan đến Afghanistan, Pakistan, Trung Á) ».
Nhà xã hội học Adel Bakawan, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về Irak của Pháp (CFRI), cho rằng trong chiến lược này, cần phải kể đến vai trò quan trọng của trung tướng Qassem Soleimani, bị quân đội Mỹ ám sát vào tháng 1/2020 ở Bagdad, Irak, khi đang bí mật lên kế hoạch cho một cuộc tấn công vào đại sứ quán Mỹ ở Irak. Trên đài France Culture, chuyên gia về Trung Đông giải thích :
« Qassem Soleimani chắc chắn là nhân vật thứ hai sau giáo chủ Ali Khamenei ở Cộng hòa Hồi Giáo Iran. Ông là người xây dựng điều mà tôi gọi là một mô hình nhà nước Iran mới, Nhà nước Dân quân trên khắp Trung Đông, ở Syria, Iraq, Liban và Yemen. Đây thực sự là mô hình xuất khẩu, do Cộng hòa Hồi Giáo Iran và chính Qassem Soleimani phát minh ra.
(…) Đó là hiện tượng dân quân hóa nhà nước và xã hội. Nói một cách khác, tổ chức dân quân không nằm ngoài nhà nước, mà là một phần của Nhà nước, thậm chí là toàn bộ nhà nước. Việc quản lý nhà nước được thực hiện có tính hợp lý, có phương thức hoạt động, hệ thống tiêu chí, ý thức hệ và tổ chức dân quân. »
Hezbollah : Đồng minh không thể thiếu
Bên cạnh đó, cần phải nhắc vai trò có tính quyết định của Hezbollah ở Liban, đồng minh ưu tiên của Iran do vị trí chiến lược (lối ra Địa Trung Hải). Được Vệ Binh Cách Mạng Iran thành lập năm 1982 trong bối cảnh cuộc chiến chống sự hiện diện của Israel ở miền nam Liban, lực lượng dân quân Hezbollah ở Liban là một ví dụ điển hình cho mục đích sâu xa của « trục kháng chiến». Khi thừa nhận các nguyên lý của hệ tư tưởng thần quyền cách mạng, Hezbollah trở thành tổ chức đầu tiên không thuộc Iran cam kết trung thành với các nguyên tắc cách mạng theo tư tưởng Khomeyni.
Lực lượng này đã phát triển mạnh mẽ, trở thành một tổ chức quân sự thành công về mặt hậu cần và đã xây dựng cho mình một đội quân có các kỹ năng phối hợp quân sự thực sự. Với một hỏa lực đáng kể, sở hữu từ 100 - 150 ngàn tên lửa và rốc-kết, Hezbollah đã cho thấy rõ sự khác biệt với nhiều nhóm dân quân khác khi trở thành một tác nhân phi chính phủ được trang bị vũ khí nhiều nhất trên thế giới.
Theo phân tích từ nhà nghiên cứu Jean-Loup Samaan được bài nghiên cứu của Trung tâm Tư liệu trường Quân sự Pháp trích dẫn, đây thực sự là một mối đe dọa cho Nhà nước Do Thái do lãnh thổ Israel hoàn toàn nằm trong tầm hoạt động của tên lửa Hezbollah. Theo đó, « việc phát triển kho tên lửa cùng với việc cải thiện độ chính xác của chúng (chương trình "tên lửa dẫn đường chính xác") giúp Hezbollah thiết lập "thế cân bằng khủng bố" với nước láng giềng Israel ».
Việc lực lượng dân quân Hezbollah từ năm 2005 tham gia vào nhiều chính phủ liên tiếp đã biến tổ chức này thành một tác nhân không thể thiếu trên chính trường Liban. Theo cách đó, Hezbollah đã có thể trực tiếp tác động đến các quyết định theo hướng có lợi cho những lợi ích của tổ chức này, cũng như Cộng hòa Hồi giáo Iran. Phe Hezbollah còn tự chủ được về mặt kinh tế, nên phần nào giảm nhẹ gánh nặng cho Teheran, vẫn đang hứng chịu các lệnh trừng phạt của quốc tế.
Sức mạnh răn đe của lực lượng dân quân Hezbollah với việc hàng ngàn tên lửa được Hezbollah bố trí tại nhiều khu dân cư đông đúc ở Beyrouth, nhắm vào Nhà nước Do Thái, được xem như là một thắng lợi của Iran. Đây cũng chính là mô hình « bên ủy nhiệm » mà Iran muốn tái lập ở Syria và Irak nhưng không mấy thành công do sự phân tán của nhiều nhóm dân quân vũ trang hệ phái Shia.
Các mục tiêu
Dù vậy, xung đột giữa Israel và Hamas bùng phát phần nào cho thấy rõ, Teheran đã đạt được các mục tiêu trong chiến lược « trục kháng chiến », qua việc kiểm soát được bốn thủ đô ở Trung Đông là Bagdad, Beyrouth, Damas và Sanaa, cũng như là gây khó khăn cho Mỹ và các đồng minh của nước này trong khu vực.
Nhà nghiên cứu Fabrice Balanche, trả lời phỏng vấn Conflit, đã tóm lược như sau :
« Ngày nay, việc xuất khẩu cuộc cách mạng Hồi Giáo đã kết thúc. Iran trên thực tế đã trở thành một cường quốc, nhưng vẫn tiếp tục đưa ra một diễn ngôn về ý thức hệ. Điều này che giấu mục tiêu đế quốc của họ được hiện thực hóa bởi trục Liban-Syria-Irak-Iran. Các phe ủy nhiệm cũng có thể gián tiếp đối đầu với Mỹ và đặt trách nhiệm về các hành động lên Hezbollah hoặc Houthi. Trên báo chí Ả Rập, người ta chế nhạo Iran vì đã để cho đồng minh Hamas của họ bị thảm sát.
Iran buộc phải đáp trả bằng cách chứng minh rằng họ đang tích cực quấy rối quân đội Mỹ ở Syria và Irak nói riêng. Họ hy vọng Lầu Năm Góc phản ứng quá mức đối với lực lượng dân quân hệ phái Shia ở Irak, để rồi chính phủ Irak yêu cầu Mỹ phải rút quân, và điều này đã xảy ra. Tuy nhiên, nếu Mỹ rời Irak, thì họ cũng phải sơ tán khỏi miền Đông Syria.
Tehran cũng đe dọa các chế độ quân chủ xứ dầu mỏ của người Hồi Giáo hệ phái Sunni từ Yemen, đã bị biến thành bệ phóng tên lửa trong khu vực. Tình hình này gây khó khăn sự phát triển kinh tế của Ả Rập Xê Út, quốc gia thỉnh thoảng bị nã tên lửa, tương tự như với Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Điều này không thuận lợi cho môi trường kinh doanh. Rõ ràng, Iran có khả năng gây hại thông qua các đồng minh của họ trong khu vực.
Trong mối quan hệ với Israel, mục tiêu của Iran là đe dọa Nhà nước Do Thái để không bị tấn công đáp trả. Nếu Mỹ quyết định tấn công trực tiếp vào lãnh thổ Iran, Teheran sẽ trả đũa bằng cách phóng vài nghìn tên lửa vào Israel từ Nam Liban và Syria. Hezbollah tạo thành lực lượng răn đe, trong khi chờ đợi Iran có vũ khí hạt nhân. »
Thu, 14 Mar 2024 - 91 - Chiến lược công nghiệp quốc phòng : Tham vọng bị cản trở của Liên Hiệp Châu Âu
Gói viện trợ quân sự cho Ukraina vẫn bị chặn tại Quốc Hội Mỹ. Việc Hoa Kỳ rút khỏi châu Âu dường như có thể xảy ra trước khả năng Donald Trump tái đắc cử. Nhận thức được rằng phải đầu tư nhiều hơn cho an ninh của chính mình, ngày 05/03/2024, Ủy Ban Châu Âu đã đề xuất một chiến lược mới cho ngành công nghiệp quốc phòng, nhằm trang bị tốt hơn trước mối đe dọa đến từ Nga, cũng như giảm bớt phần nào sự phụ thuộc vào Mỹ.
Tham vọng này có dễ thực hiện ? Một điều chắc chắn là các nước thành viên của khối Liên minh Bắc Đại Tây Dương, phần lớn cũng là thành viên của Liên Hiệp Châu Âu, một lần nữa đã bị « dội gáo nước lạnh » trước các phát biểu của Donald Trump. Đầu tháng 2/2024, trong cuộc vận động bầu cử sơ bộ đảng Cộng Hòa tại bang South Carolina, cựu tổng thống Mỹ tuyên bố nếu tái đắc cử, ông có thể sẽ không bảo vệ những đồng minh nào của khối NATO không đóng góp tài chính đầy đủ, trong trường hợp nước này bị Nga tấn công.
Phòng thủ : Châu Âu dưới chiếc ô của Mỹ
Lời đe dọa này của ông Donald Trump làm dấy lên nỗi lo lắng về khả năng Washington rút khỏi một tổ chức quân sự luôn « dưới sự tiếp sức của Mỹ ». Chi tiêu quân sự của các nước thành viên Liên Âu, Anh Quốc và Canada gộp lại chỉ chiếm khoảng 30% nguồn tài chính của liên minh, phần còn lại là do Mỹ bảo đảm. Các số liệu do Cơ quan Quốc phòng Châu Âu cung cấp cho thấy chỉ có 5 nước thành viên NATO, gồm Hy Lạp, Ba Lan, Estonia, Litva và Latva, là đã vượt mức quy định đóng góp đặt ra là 2% của GDP.
Michel Goya, đại tá và là nhà sử học quân sự, trên tờ Le Parisien mỉa mai đánh giá : « Chỉ khi nước biển rút thì người ta mới thấy những ai trần trụi. Tại Pháp, chúng ta đã mất 25 năm (từ năm 1990 đến năm 2015) để phá dỡ các phương tiện quốc phòng, thì bây giờ chúng ta cũng sẽ cần đến ngần ấy năm để xây dựng lại một nền tảng vững chắc ».
Tình trạng này cũng được ghi nhận tại nhiều nước châu Âu, ngoại trừ các nước Đông Âu, những quốc gia bị đe dọa nhiều nhất trước mối nguy xâm lược từ Nga. Thứ Hai, 26/02/2024, trong cuộc hội thảo tại Paris với sự tham dự của nhiều lãnh đạo các nước đồng minh, tổng thống Pháp Emmanuel Macron thừa nhận mục tiêu cung cấp một triệu quả đạn pháo cho Ukraina là sẽ không bao giờ đạt được. Hiện tại, châu Âu chỉ có 30% số đạn dược đã được trao cho Zelensky.
Chiến tranh Ukraina còn làm lộ rõ những yếu kém về nguồn dự trữ vũ khí đạn dược của quân đội các nước châu Âu sau nhiều thập niên giải trừ vũ khí. Do thiếu nguồn dự trữ, khoảng 75% trang thiết bị quân sự mới được mua sắm đã mang lại lợi nhuận cho nhiều nhà công nghiệp ngoài châu Âu, trong đó khoảng 68% là cho ngành sản xuất vũ khí của Mỹ.
Trong trường hợp Donald Trump tái đắc cử, an ninh châu Âu có nguy cơ bị đe dọa. Việc Hoa Kỳ thoái lui không chỉ sẽ gây thiếu hụt đạn dược, mà Washington còn có vai trò thiết yếu về thu thập tin tình báo cho liên minh, là quốc gia kết cấu, điều phối và tổ chức các đội quân. Châu Âu còn phụ thuộc vào Mỹ trong nhiều lĩnh vực chiến lược khác, như « khả năng vận chuyển quân sự, năng lực vệ tinh, giám sát hải và không quân và cả về hậu cần chung »
Tự chủ công nghiệp để tự chủ chiến lược
Trong năm 2022, chi tiêu quân sự của cả khối Liên Hiệp Châu Âu là 240 tỷ đô la, thấp hơn rất nhiều so với Mỹ ( 794 tỷ ), nhưng cao gấp hai lần ngân sách của Nga (92 tỷ) và gần như tương đương với Trung Quốc (273 tỷ). Chỉ có điều « châu Âu có tiền, nhưng vấn đề là số tiền này, tuy không thể phủ nhận, lại không phản ảnh một chính sách phòng thủ châu Âu liên kết chặt chẽ. Nghĩa là các nước không cùng nhau bắt tay, chỉ là những hợp tác song phương thay vì hợp sức 27 nước thành viên », bà Alexandra de Hoop Scheffer, chuyên gia địa chính trị, phó chủ tịch trung tâm cố vấn Quỹ German Marshall của Mỹ, nhận xét trên đài phát thanh France Inter.
Trong toàn cảnh này, Ủy Ban Châu Âu hôm 05/03/2024 đã đề xuất một kế hoạch mới nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp quốc phòng, giúp châu Âu tự chủ hơn trên phương diện quân sự, giảm bớt phụ thuộc vào Mỹ. Theo đề xuất của Thierry Breton, ủy viên châu Âu về thị trường nội địa, Liên Hiệp Châu Âu nên hợp nhất hai công cụ, một để mua chung vũ khí thông qua các hợp đồng đầu tư công và một để hỗ trợ sản xuất đạn dược, đã được triển khai từ năm năm 2022, chủ yếu nhằm giúp các nước trong Liên Âu hậu thuẫn cho Ukraina.
Ủy Ban Châu Âu cho rằng 27 nước thành viên nên có một chiến lược lâu dài, và sửa chữa những khiếm khuyết trong ngành công nghiệp quốc phòng của Liên Âu do 30 năm ảo tưởng về nền hòa bình sau khi Liên Xô sụp đổ hồi đầu những năm 1990. Và do vậy, Liên Âu « cần phải chuyển qua nền kinh tế chiến tranh, một phần để giúp Ukraina, một phần để bảo đảm an ninh cho khối », theo lời ông Thierry Breton, ủy viên Châu Âu phụ trách chương trình.
Ngoài ra, Liên Âu cần khoảng một trăm tỷ euro trong 5 năm tới với mục tiêu đạt 40% các khoản mua sắm vũ khí chung. Phải bảo đảm cho các nhà công nghiệp chế tạo vũ khí rằng các đơn hàng sẽ có đủ cho nhiều thập kỷ tới. Tuy nhiên, theo nhiều nhà quan sát, các dự án mua sắm chung có nguy cơ vấp phải sự do dự của nhiều nước tùy theo lợi ích chiến lược của từng quốc gia. Lĩnh vực vũ khí luôn là một chủ đề, theo định nghĩa, thuộc phạm trù quyền tự quyết của một quốc gia.
Đây chính là điều dẫn đến hiện tượng phân mảnh thị trường vũ khí tại châu Âu, gây khó khăn cho việc thiết lập một nguồn dự trữ bất kỳ. Ngược lại, Hoa Kỳ lúc nào cũng đặt mua nhiều hơn so với nhu cầu của quân đội, nên có sẵn một nguồn dự trữ trang thiết bị để có thể xuất khẩu thông qua cơ chế được gọi là Foreign Military Sales.
Trên làn sóng RFI Pháp ngữ, trung tướng Jean-Paul Perruche, nguyên tổng giám đốc bộ Tham mưu Liên Hiệp Châu Âu, cựu chủ tịch EuroDefense France, giải thích.
« Chính sách phòng thủ luôn thuộc về đặc quyền quốc gia. Việc tham vấn trong một cơ chế cạnh tranh không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trên thực tế, các nước có xu hướng giấu bản sao của mình hơn là chia sẻ. Khi tôi còn tại chức ở bộ Tham mưu trong những năm 2000, chúng tôi nhận thấy có đến 21 chương trình phát triển xe bọc thép trong số 28 nước thành viên Liên Hiệp Châu Âu vào thời điểm đó. Quý vị có thể hình dung ra đây thật sự là một sự lãng phí ! »
Đức : Mắt xích yếu cho chiến lược tự chủ phòng thủ ?
Điểm đáng chú ý là trong chiến lược mới này, Liên Âu tìm cách thỏa mãn hai quan điểm đối lập về phòng thủ : Một bên, được Pháp hậu thuẫn, chủ trương tự chủ chiến lược châu Âu, bảo vệ ý tưởng mua sắm trang thiết bị quân sự châu Âu (đương nhiên là Pháp) và bên kia, thân Mỹ, cho rằng không nên chỉ khép mình trong khu vực châu Âu, « chúng ta cần có Mỹ, cần NATO và do vậy, hãy để ngỏ cánh cửa cho vũ khí Mỹ », theo như giải thích của ông Guillaume Lagane, chuyên gia về quốc phòng, giảng viên trường đại học Khoa học Chính trị (Sciences Po) Paris, với trang mạng La Tribune.
Ngoài việc dung hòa hai trường phái, đề xuất của Ủy Nan Châu Âu còn nhằm mục đích phòng ngừa khả năng bị Hoa Kỳ bỏ rơi, Liên Âu vẫn có thể có những năng lực về vũ khí và phòng thủ. Trong xu hướng này, trung tướng Jean-Paul Perruche cho rằng để có được một nền tự chủ chiến lược, châu Âu phải hợp sức thay vì hành động đơn lẻ:
« Do vậy, để có được tự chủ về chiến lược tác chiến, chúng ta cần phải có tự chủ về chiến lược, công nghiệp, phòng thủ. Bởi vì nếu chúng ta phụ thuộc vào bên ngoài về nguồn cung vũ khí, hệ thống hỗ trợ vũ khí, chúng ta sẽ gặp khó khăn. Như ông Thierry Breton đã nói, song song đó còn có mong muốn thúc đẩy ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu và do vậy, các quyết định này đã được đưa ra với mong muốn khôi phục sự cân bằng trong các đơn đặt hàng thiết bị quốc phòng ở bên ngoài. Năm 2023, có đến 75% số trang thiết bị này được mua ở bên ngoài, chỉ có 25% là ở châu Âu. Ủy viên Châu Âu mong muốn hướng tới một sự cân bằng, 50 – 50 chẳng hạn. Để thực hiện điều này, cần phải thông qua một loạt quy định nhằm cải thiện sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp châu Âu ».
Nếu như những phát biểu gây sốc của ông Donald Trump là « cú hích » để Liên Hiệp Châu Âu đẩy nhanh tiến trình phát triển công nghiệp quốc phòng, thì những dự án được đề xuất cũng đối mặt với nhiều thử thách. Giới quan sát dự báo, trước khi các biện pháp này được thông qua, các cuộc đàm phán thương lượng sẽ là gay gắt. Ai sẽ là người « cầm trịch » để lèo lái nỗ lực quân sự này : Ủy Ban Châu Âu hay là một cơ chế liên chính phủ ? Ai sẽ là bên tài trợ dù biết rằng ông Thierry Breton có nhắc đến việc lập một quỹ trị giá 100 tỷ euro theo mô hình quỹ phòng ngừa chống Covid-19 ?
Ngần ấy câu hỏi vẫn chưa có lời giải. Nữ chuyên gia về các vấn đề địa chính trị Alexandra de Hoop Scheffer, trên làn sóng France Inter lưu ý thêm rằng, trong chiến lược này, Đức còn là một mắt xích then chốt, có nguy cơ cản trở đà tiến của chiến lược phòng thủ chung châu Âu:
« Hiện tại những gì chúng ta nhận thấy đó là một nước Đức hoàn toàn hoảng sợ trước một kịch bản Trump bis. Do vậy, thay vì nghĩ đến châu Âu như Paris, vốn không ngừng kêu gọi tự chủ chiến lược, và cần phải có một tầm nhìn kinh tế chiến tranh, thì nước Đức nghĩ đến việc tìm kiếm sự bảo đảm an ninh từ Mỹ và mua tất từ Mỹ. Ở đây, tôi muốn nói đến một dạng giảm cam kết của Đức đối với dự án châu Âu trong bối cảnh hoảng sợ. Theo quan điểm của tôi, chừng nào chúng ta chưa giải quyết được vấn đề này, thì chúng ta sẽ chẳng thể làm việc cả trong hợp tác song phương Pháp – Đức cũng như là trên bình diện châu Âu ».
Thu, 07 Mar 2024 - 90 - Hợp tác quân sự với Nga : Cơ hội để Bắc Triều Tiên bớt phụ thuộc vào Trung Quốc
Ngày 13/09/2023, lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un đã đến Vladivostok, miền Viễn Đông của Nga, gặp đồng nhiệm Vladimir Putin. Đôi bên được cho là đã ký kết một thỏa thuận về hợp tác quân sự. Một cơ hội để Bình Nhưỡng tiếp cận, cải thiện công nghệ phát triển tên lửa và hạt nhân, khôi phục nền kinh tế và nhất là, trong chừng mực nào đó, giảm bớt tầm ảnh hưởng chính trị từ Bắc Kinh.
Hãng tin Yonhap của Hàn Quốc dẫn lời bộ trưởng Quốc Phòng Shin Won Sik trong cuộc gặp với giới báo chí hôm thứ Hai 26/02/2024, khẳng định nhiều nhà máy của Bắc Triều Tiên đang hoạt động hết công suất để sản xuất vũ khí và đạn pháo cung cấp cho Nga.
Thỏa thuận vũ khí : « Phao cứu hộ » kinh tế
Lãnh đạo Quốc Phòng Hàn Quốc thẩm định Bắc Triều Tiên dường như đã xuất khẩu hơn 6.700 container sang Nga từ sau cuộc gặp thượng đỉnh Nga – Triều tháng 9/2023. Con số này ước tính tương đương với khoảng ba triệu đạn pháo loại 155 ly hay 500 ngàn đạn 122 ly. Trước đó, Cơ quan Tình báo Hàn Quốc còn cho rằng Bình Nhưỡng đã chuyển giao tên lửa đạn đạo cho quân đội Nga, theo các hình ảnh vệ tinh do Mỹ cung cấp.
Đổi lại, Bình Nhưỡng dường như nhận được lương thực và nhiều mặt hàng thiết yếu khác, cũng như các loại nguyên liệu và linh kiện rời để sản xuất vũ khí. Hàn Quốc ước tính toàn bộ khối lượng container gởi từ Nga sang Bắc Triều Tiên cao hơn mức xuất đi theo chiều ngược lại là 30% tính từ tháng 7 hay tháng 8/2023. Ngoài ra, Matxcơva dường như đã cung cấp cho Bình Nhưỡng nhiều công nghệ để phát triển vệ tinh.
Theo nhiều nhà quan sát, thỏa thuận vũ khí với Nga thật sự là « món lộc trời ban » cho nền kinh tế Bắc Triều Tiên, đang bị bóp nghẹt vì các lệnh trừng phạt quốc tế và hậu quả của những biện pháp phòng chống dịch Covid-19 khắt khe, đẩy hơn 60% dân số Bắc Triều Tiên xuống dưới ngưỡng nghèo khổ.
Kinh tế gia Anwita Basu, phụ trách mảng Châu Âu, chuyên về các rủi ro, thuộc Fitch Solutions, dự phóng, sau 5 năm bị suy giảm mạnh (khoảng 4,5%), kinh tế Bắc Triều Tiên năm 2024 sẽ tăng trưởng trở lại 1%, mức cao nhất trong gần một thập niên nhờ vào thỏa thuận bán tên lửa đạn đạo và hàng triệu đạn pháo cho cỗ máy chiến tranh của Nga.
Giảm phụ thuộc vào Bắc Kinh
Hãng tin Bloomberg của Mỹ trong tuần cuối tháng 1 đầu tháng 2/2024 đưa tin nhà nước Bắc Triều Tiên dự kiến sẽ thu được ít nhất một tỷ đô la từ việc bán đạn pháo cho Nga, trong khi tên lửa đạn đạo do Matxcơva đặt hàng thường có giá vài triệu đô la.
Trên kênh truyền hình Deutsche Welle của Đức, nhà kinh tế học lưu ý ngành công nghiệp quốc phòng cùng với nông nghiệp là những lĩnh vực có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế Bắc Triều Tiên : « Nền công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên khá tiên tiến. Họ đã đầu tư và phát triển lĩnh vực này từ những năm 1950 và kho dự trữ được cho là đủ lớn để đáp ứng nhu cầu hiện nay của Nga, vì họ hiện chỉ cung cấp loại đạn pháo khá thô sơ để Nga tiếp tục các đợt nã pháo hạng nặng mà Nga hy vọng sẽ thực hiện được trong suốt 12 tháng tới hoặc lâu hơn. »
Cũng theo nữ chuyên gia này, thỏa thuận vũ khí với Nga giúp củng cố hai điều mà Bắc Triều Tiên mong muốn từ lâu : « Thứ nhất là tính chính đáng với tư cách là một quốc gia, điều mà họ vẫn chưa có được vì Chiến Tranh Triều Tiên (1950 – 1953) vẫn chưa kết thúc. Thứ hai là một nền quốc phòng và quân sự bền vững, những công cụ giúp bảo vệ chủ quyền của họ. »
Việc Bình Nhưỡng ký kết hợp tác quân sự với Matxcơva đang làm dấy lên lo ngại về một trục tam giác Nga – Trung – Triều, nhằm đối kháng với liên minh quân sự ba bên Mỹ – Nhật – Hàn. Nhưng theo ông Pascal Dayez – Burgeon, nhà sử học, chuyên gia về Triều Tiên và nhà cựu ngoại giao ở Seoul, việc Nga bất ngờ đến « gõ cửa » cầu viện lại là dịp để Bắc Triều Tiên giảm bớt phần nào tầm ảnh hưởng kinh tế - chính trị từ Trung Quốc. Trên kênh truyền hình France 24, ông phân tích :
« Đây là một cơ hội cho Bắc Triều Tiên, vốn luôn chơi trò cân bằng giữa Nga và Trung Quốc. Matxcơva đang cầu viện đến Bình Nhưỡng và do vậy, đây là thời điểm để Bắc Triều Tiên có được những thứ họ thật sự cần, chẳng hạn như dầu hỏa, mà họ đã không được nhận trong một thời gian dài do Nga ngừng cung cấp vì dịch Covid-19 ; rồi có được các hợp đồng kinh tế, cả hai nước cũng có một đường biên giới chung ; và sau cùng là không còn phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, bởi vì Bắc Triều Tiên nhìn chung vẫn bị xem là quốc gia vệ tinh của Trung Quốc. Do vậy, khi chơi lá bài Nga, Bắc Triều Tiên đang tránh xa phần nào Trung Quốc. »
Quan hệ Trung - Triều và những thăng trầm
Quả thật, mối quan hệ Trung - Triều chưa bao giờ phẳng lặng, khi thì tồi tệ trong suốt cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953), lúc thì nguy hiểm như trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc, và có khi gặp khó khăn trong giai đoạn Chiến Tranh Lạnh.
Bắc Triều Tiên luôn bảo vệ nền độc lập và quyền tự quyết của mình vì trước hết, quốc gia khép kín nhất hành tinh này hiểu rõ là quyền tự quyết đó trong thời gian dài đã bị đặt dưới sự giám hộ hay bị đe dọa bởi quân đội Mỹ và liên quân Liên Hiệp Quốc trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, bởi đế quốc Nhật Bản trong suốt nửa đầu thế kỷ XX, nhưng đầu tiên là bởi đế chế Trung Hoa trong quá khứ.
Trung Quốc, một cường quốc đang trỗi dậy, vốn rất lo lắng cho sự bất ổn trong vùng ngoại vi sát cạnh, từ lâu đã tìm cách can dự vào chuyện nội bộ của nước láng giềng có diện tích chỉ bằng một tỉnh của mình. Chế độ Bình Nhưỡng có lẽ sẽ không bao giờ quên việc Bắc Kinh ngang nhiên xen vào chuyện thanh lọc bộ máy nhân sự trong nội bộ Đảng Lao Động Triều Tiên năm 1956.
Théo Clément, nhà nghiên cứu về quan hệ Trung – Triều, thuộc trường đại học Lyon, trong một bài viết đăng trên tạp chí Diplomatie số ra cho năm 2017, nêu ra ít nhất hai giai thoại thật sự gây căng thẳng cho mối quan hệ giữa hai nước, mà bề ngoài luôn chứng tỏ là đồng minh : Thứ nhất là khi Trung Quốc và Liên Xô gạt Triều Tiên ra khỏi bộ chỉ huy tác chiến trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953), một giai đoạn mà Bình Nhưỡng xem như là một sự sỉ nhục.
Lần thứ hai là việc Bắc Kinh từ năm 1992 không ngừng hối thúc đối tác Bình Nhưỡng thanh toán hàng nhập khẩu bằng ngoại tệ và bằng tiền mặt hơn là thông qua một cơ chế hàng đổi hàng. Sự thay đổi thái độ này của Trung Quốc đã bị ông Kim Jong Il, thân phụ của lãnh đạo Kim Jong Un hiện nay, khi ấy đang sắp trở thành « Lãnh tụ đáng kính » xem như là một sự phản bội. Cách hành xử này của Bắc Kinh ít nhiều cũng góp phần dẫn đến nạn đói kéo dài từ năm 1994-1997, khiến từ 600 ngàn đến hơn hai triệu người chết, tùy theo các ước tính khác nhau, như nhận định của nhà nghiên cứu Théo Clément.
Nô lệ kinh tế
Trái lại nước Nga thời Vladimir Putin, dưới áp lực của lệnh trừng phạt quốc tế sau vụ sáp nhập bán đảo Crimée năm 2014, vì muốn tìm cách thoát khỏi thế cô lập và thắt chặt lại bang giao với Bắc Triều Tiên, nên đã xóa đến 90% nợ cho Bình Nhưỡng. Điều này có lẽ giải thích cho sự trọng thị mà Bắc Triều Tiên dành cho ngoại trưởng Nga Serguei Lavrov khi ông đến Bình Nhưỡng hồi mùa hè 2023.
Đích thân lãnh đạo Kim Jong Un đã hướng dẫn ngoại trưởng Nga tham quan nhiều nhà máy sản xuất vũ khí, theo như ghi nhận từ nhà sử học Juliette Morillot, chuyên gia về Bắc Triều Tiên, trên kênh truyền hình France 24 ngày 07/02/2024 :
« Nước Nga chưa bao giờ vắng bóng trong quan hệ ngoại giao và xích lại gần với Bắc Triều Tiên. Thông thường khi nói đến Bắc Triều Tiên, người ta nghĩ ngay đến Trung Quốc mà quên mất Nga. Theo tôi, về truyền thống và có phần nghịch lý, Bắc Triều Tiên luôn tin tưởng vào Matxcơva hơn là Bắc Kinh và Bắc Triều Tiên chưa bao giờ vâng lời Trung Quốc cả ! »
Ngoài ra, nếu Bắc Triều Tiên vẫn xem Trung Quốc như là một chất xúc tác cho sự phát triển kinh tế, cũng như là nguồn hậu thuẫn tiềm tàng trong trường hợp bán đảo Triều Tiên có căng thẳng hay xung đột, thì những hợp tác về đầu tư – kinh tế với Trung Quốc không đạt được những kết quả như ông Kim Jong Un mong đợi.
Hoàn toàn tương phản với chiến lược kinh tế của Trung Quốc với phần còn lại ở châu Á và thậm chí trên thế giới, và bất chấp hàng chục đặc khu kinh tế được thiết lập ở Bắc Triều Tiên, Bắc Kinh ít can dự vào mà chỉ để cho các chính quyền địa phương và các doanh nghiệp tư nhân tự do hoạt động, chủ yếu tập trung khai thác và nhập khẩu nguyên nhiên liệu thô giá trị thấp và xuất khẩu các mặt hàng do Trung Quốc sản xuất sang Bắc Triều Tiên. Tình trạng này khoét sâu cán cân thâm hụt thương mại và để lại rất ít triển vọng phát triển kinh tế mà Bắc Kinh từng hứa hẹn, như phát triển cơ sở hạ tầng và chuyển giao công nghệ.
Nhà cựu ngoại giao Pascal Dayez – Burgeon kết luận, việc ký kết thỏa thuận vũ khí với Nga rõ ràng đang mang lại chút làn gió mới cho nền kinh tế Bắc Triều Tiên.
« Trung Quốc không muốn có quan hệ thương mại. Trung Quốc chỉ đang biến Triều Tiên thành thuộc địa bóc lột sơ cấp. Điều Bắc Kinh quan tâm là than đá, đất hiếm, nhân công mà họ có thể tuyển dụng với giá nô lệ. Đây là điều Bắc Triều Tiên muốn tránh, nhưng Trung Quốc đang làm. Trên thực tế, Bắc Triều Tiên là một thuộc địa kinh tế và thực sự theo kiểu chế độ phong kiến của Trung Quốc, do đó, khả năng hợp tác với Nga là điều kỳ diệu mới. Tuy đó chỉ là những hợp tác nhỏ, nhưng có thể mang đến chút dưỡng khí.
Đây cũng là điều mà Kim Jong Un từng hy vọng trong cuộc gặp với Donald Trump, tức là chơi trò cởi mở một chút với phương Tây để được nới lỏng các biện pháp trừng phạt. Nhưng điều đó đã không xảy ra và do vậy, ông ấy đang chơi đến cùng quân bài chiến tranh, hay chí ít ông Kim Jong Un đang nỗ làm lực làm cho chúng ta tin như vậy, nhưng mối quan hệ thương mại, sự bình đẳng giữa Trung Quốc và Triều Tiên là hoàn toàn không có ».
Nỗi lo của Bắc Kinh
Dù vậy, việc Nga và Bắc Triều Tiên thắt chặt quan hệ quân sự, cùng với thông báo tổng thống Vladimir Putin sẽ đến thăm Bình Nhưỡng, lần đầu tiên sau chuyến thăm thứ nhất cách nay 23 năm, cũng đã khiến Trung Quốc lo lắng. Vào lúc cuộc chiến Ukraina bước sang năm thứ ba, tổng thống Nga rất có thể có mưu đồ tạo ra những điểm nóng mới nhằm chuyển hướng chú ý của phương Tây trong hồ sơ Ukraina và giảm áp lực cho Matxcơva.
Theo trang mạng thông tin L’Opinion, nguy cơ này đã được ông Fang Ning, giáo sư trường đại học Tứ Xuyên, cựu giám đốc Viện Khoa học Chính trị, thuộc Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, đánh động trong một cuộc hội thảo do đại học Nhân dân Bắc Kinh tổ chức. Theo ông, « cần phải lưu ý đến sự hiện hữu những xu hướng theo đó Nga có thể thực hiện một chiến lược như thế ở Đông Bắc Á trong năm 2024, khu vực cận kề với Trung Quốc. Điều này cần phải được quan tâm và xử lý một cách cẩn trọng ».
Dường như lời báo động này đã được Bắc Kinh lắng nghe. Chính phủ Trung Quốc thời gian gần đây đã liên tiếp có những cuộc tiếp xúc với chính quyền Bình Nhưỡng vào lúc Bắc Triều Tiên tăng cường thử nghiệm tên lửa, bắn đạn thật về phía Hàn Quốc và có những phát biểu dọa dẫm. Ngày 26/01/2024, lần thứ hai trong chưa đầy một tháng, thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Tôn Vệ Đông đã đến Bình Nhưỡng gặp người đồng cấp Pak Myong Ho !
Thu, 29 Feb 2024 - 89 - Quan hệ Ý - Trung sau khi Roma rời bỏ « Con Đường Tơ Lụa Mới »
Ngày 22/10/2022, Giorgia Meloni đã được chỉ định để thành lập chính phủ mới sau khi thủ tướng Mario Draghi từ chức. Meloni thuộc cánh trung hữu theo khuynh hướng Phát-xít, nhưng không quá cực đoan đòi tách khỏi Liên Hiệp Châu Âu (EU) như Matteo Salvini. Đối với Trung Quốc, bà đã tỏ thái độ dứt khoát với Con đường tơ lụa mới, nhưng phải đến cuối năm 2023 mới tuyên bố quay lưng với sáng kiến Vành Đai và Con Đường (BRI) của Tập Cận Bình. Linh mục Phạm Hoàng Dũng từ Liège, Bỉ có bài nhận định.
Con Đường Tơ Lụa Mới ?
Đối với người Ý, họ vẫn gọi sáng kiến của Tập Cận Bình là Con đường tơ lụa, có chăng là thêm vào từ « mới », vì đây là con đường mà Marco Polo, một người Ý, đã từng đi trong quá khứ.
Con đường tơ lụa mới, hay sáng kiến Vành Đai và Con Đường, là một thoả thuận kinh tế xuyên quốc gia do Tập Cận Bình đưa ra vào năm 2013 để củng cố vị thế kinh tế và ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc trong khu vực và trên thế giới. Kế hoạch dự kiến một loạt trao đổi thương mại và tạo ra cơ sở hạ tầng chiến lược trên phạm vi toàn cầu.
Ý là quốc gia duy nhất trong EU và G7 gia nhập dự án này dưới thời thủ tướng Giuseppe Conte vào năm 2019. Đến cuối năm 2023, chính phủ của bà Meloni phải quyết định gia hạn hay rút khỏi dự án.
Niềm hy vọng của Ý
Cách nay 5 năm, khi chính phủ của thủ tướng Conte ký thỏa thuận gia nhập sáng kiến Vành Đai và Con Đường của Bắc kinh, hy vọng sẽ có sự gia tăng đột biến về đầu tư tài chính trên đất Ý và về giao thương giữa hai nước. Trieste sẽ là một trong những cảng biển được chọn làm nơi đầu tư cơ sở hạ tầng của dự án, cũng như nhiều dự án khác trong các lãnh vực xây dựng, tài chính, v.v… ước tính lên tới 20 tỷ đô la.
Nhưng sau 5 năm, bản tổng kết cho thấy một sự thất vọng hoàn toàn. Ngay cả Tập Cận Bình cũng đã sửa đổi cấu trúc kế hoạch của ông, từ bỏ các dự án lớn để chuyển sang những dự án có mục tiêu cụ thể hơn, sau 10 năm thực hiện, nhất là Trung Quốc đang trong giai đoạn khủng hoảng sau thời gian đóng cửa vì Covid.
Về phần nước Ý, sau khi đã thay 3 chính phủ trong vòng 5 năm, bản tổng kết thoả thuận này cho thấy kết quả quá ít ỏi và sự mất lòng tin vào Bắc Kinh, cũng như sự phản đối gia tăng trong chính phủ Ý.
Ngày 23/03/2019, Chủ tịch Tập Cận Bình đã đến Ý để ký bản ghi nhớ với Giuseppe Conte. Ngoại trưởng Ý lúc đó, Luigi Di Maio, cũng là kiến trúc sư của việc tham gia này, đã tổ chức những hội nghị xúc tiến thương mại nhằm khuyếch trương thương hiệu « Made in Italy » tại Trung Quốc và qua đó trên thế giới. Nhưng đó là một kết quả tiêu cực.
Những con số cụ thể
Trong năm 2019, theo Văn phòng quan sát chính trị quốc tế của Quốc hội Ý (Istat), giá trị của các lô hàng cam Ý, đặc biệt là loại cam huyết, đặc sản của miền Nam nước Ý, xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ là 162.460 euro. Trong các năm 2020, 2021 và 2022, con số này là 0 ; ghi nhận được từ việc « xuất khẩu trái cây họ cam quýt, tươi hoặc xấy khô » từ Ý sang Trung Quốc.
Nhưng không chỉ có cam. Quan hệ thương mại Ý-Trung Quốc vẫn chưa khởi sắc. Xuất khẩu của Ý sang Trung Quốc tăng trưởng, nhưng chưa bao giờ có được mức tăng như mong đợi từ Roma : 13 tỷ euro năm 2019 ; 12,8 tỷ năm 2020, 15,7 tỷ năm 2021, 16,4 tỷ năm 2023. Trong khi đó, nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc vào Ý lại bùng nổ mãnh liệt : từ 31,7 tỷ euro năm 2019 lên đến 57,5 tỷ vào năm 2022 (đặc biệt là hàng điện tử, quần áo, máy móc). Trung Quốc ngày nay là nhà cung cấp lớn thứ hai cho Ý, và trên thực tế Ý vẫn là đối tác thương mại thứ cấp của Bắc Kinh vì chỉ là nhà cung cấp thứ 24 và khách hàng thứ 22.
Ngay cả đối với các công ty Ý, Trung Quốc cũng không phải là trọng tâm : Đây chỉ là thị trường tiêu thụ thứ 10, chiếm 2,6% doanh số « Made in Italy ». Kể từ năm 2019, thái độ của châu Âu đối với Trung Quốc đã thay đổi toàn diện hơn. Dịch Covid-19 xuất phát từ Vũ Hán góp phần làm xấu đi mối quan hệ vốn đã xuống cấp. Thêm vào đó, cuộc tấn công của Nga vào Ukraina đã làm giảm mức độ tin cậy đối với các cường quốc phi dân chủ.
Sự dè dặt và phòng ngừa trước làn sóng Trung Quốc
Sau những bài học kinh nghiệm rút ra từ các nơi khác trong dự án BRI, khối 27 nước thành viên đã can thiệp mạnh vào những dự án của Trung Quốc ở Châu Âu nhằm hạn chế tầm ảnh hưởng của Bắc Kinh.
Dưới thời chính phủ Draghi, Ý là quốc gia nhận đầu tư lớn thứ ba từ Trung Quốc ở châu Âu trong khoảng thời gian từ 2020 đến 2021 (tổng cộng 16 tỷ USD) sau Anh và Đức. Nhưng nước này đã ngăn chặn việc bán cho Trung Quốc công ty hạt giống Romagna Verisem, công ty chip LPE ở Milan và công ty Friulian của tập đoàn Alpi Aviation, chuyên sản xuất máy bay không người lái.
Tiến độ đầu tư của Trung Quốc đối với cơ sở hạ tầng châu Âu, cửa ngõ vào Con đường Tơ lụa, không còn tiếp tục diễn ra nhanh chóng như trước nữa. Bắc Kinh đã chiếm phần lớn cảng Piraeus ở Hy Lạp và khoảng 10% năng lực vận tải đường biển của châu Âu (chìa khóa thực sự của thương mại quốc tế), nhưng hiện chỉ được chấp nhận như một đối tác thiểu số.
Trong dự án cảng Trieste, tập đoàn Cosco của Trung Quốc tham gia thông qua một công ty kiểm soát cảng Hamburg, Hamburger Hafen und Logistik (Hhla). Công ty Đức kiểm soát 50,1% nền tảng hậu cần Trieste. Dường như số mệnh cuối cùng của dự án sẽ nằm dưới sự kiểm soát của China Merchants Marine. Mặc cho sự can thiệp của chính phủ Đức tại Hhla, nơi người Trung Quốc chỉ có nắm giữ 24,9% cổ phần để không có quyền phủ quyết.
Quyết định khó của chính phủ Meloni
Đây là một sự lựa chọn chính trị và kinh tế. Quyết định này đã được chờ đợi từ mùa hè, khi thủ tướng Giorgia Meloni và tổng thống Mỹ Joe Biden có cuộc thảo luận về chủ đề này trong chuyến thăm Mỹ của bà hồi tháng 7/2023. Ngoại trưởng Antonio Tajani giải thích rằng thỏa thuận đã không mang lại kết quả như Ý mong đợi, trong khi bộ trưởng Kinh tế Giancarlo Giorgetti đã nhiều lần nhấn mạnh ông không đồng ý với tư cách thành viên chính phủ.
Trước hành động đó là chuyến thăm Trung Quốc của thứ trưởng Ngoại Giao Riccardo Guariglia cũng vào mùa hè 2023 và tiếp theo là chuyến thăm của ngoại trưởng Antonio Tajani. Trong các cuộc họp đó, ý định phát triển quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước đã được xác nhận.
Quyết định của Ý
Hiệp ước hết hạn vào cuối năm 2023 đã khiến Ý phải đưa ra quyết định rời bỏ nó, điều này chắc chắn sẽ gây ra sự khó chịu từ phía Trung Quốc. Quyết định này được đưa ra ngay sau chuyến đi của Giorgia Meloni tới Hoa Kỳ gặp tổng thống Joe Biden. Dù thủ tướng Meloni không nêu rõ lý do của sự lựa chọn này, nhưng vì lợi ích chính trị, chính quyền Mỹ đã làm rõ quan điểm của họ : « Ý sẽ quyết định xem có nên rời bỏ nước này hay không và khi nào. Tuy nhiên, rõ ràng là ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới đi đến kết luận rằng các thỏa thuận với Trung Quốc là nguy hiểm ».
Điều này cho thấy cuộc gặp với tổng thống Biden có thể đã ảnh hưởng đến quyết định của Ý, khi chính quyền Mỹ nêu bật những lo ngại về các thỏa thuận với Trung Quốc. Có khả năng chính phủ Ý đã cân nhắc cẩn thận những rủi ro và tác động có thể xảy ra khi tiếp tục duy trì thỏa thuận Con đường tơ lụa, và cuối cùng đã chọn quan điểm phù hợp hơn với các quan ngại quốc tế về thương mại và quan hệ chiến lược với Trung Quốc.
Tuy nhiên, lựa chọn rút khỏi thỏa thuận có thể đã làm gia tăng căng thẳng với Trung Quốc, xét đến sự tham gia của nước này vào Sáng kiến Vành đai và Con đường, cũng như lợi ích của nước này trong việc duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các quốc gia châu Âu. Cử chỉ này của Ý có thể được coi là một hành động chính trị tế nhị, có thể gây ra hậu quả trong quan hệ song phương với Trung Quốc.
Quan hệ giữa Ý và Trung Quốc
Chương trình nghị sự tại hội nghị G20 tại Ấn Độ của Giorgia Meloni cũng bao gồm cuộc gặp song phương với thủ tướng Trung Quốc Lý Cường để xác nhận « mục đích chung » là « củng cố và làm sâu sắc thêm cuộc đối thoại giữa Roma và Bắc Kinh về các vấn đề song phương và quốc tế ». « Cả hai nước đều vững mạnh trong lịch sử hàng nghìn năm – Phủ thủ tướng Ý viết trong một ghi chú – Ý và Trung Quốc chia sẻ Quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn cầu mà năm tới sẽ kỷ niệm 20 năm và sẽ là ngọn hải đăng cho sự phát triển của tình hữu nghị và sự hợp tác giữa hai bên các quốc gia trong mọi lĩnh vực có lợi ích chung ».
Mối quan hệ với Trung Quốc giảm bớt, nhưng không bị cắt đứt hoàn toàn: Ý và Trung Quốc nhắc lại mong muốn phát triển quan hệ đối tác chiến lược, như đã được xác nhận trong các chuyến công tác của Thứ trưởng Ngoại Giao Riccardo Guariglia và của Ngoại trưởng, Antonio Tajani.
Và không chỉ vậy : Tổng thống Sergio Mattarella dự kiến đến thăm Trung Quốc trong năm 2024 để tái khẳng định tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước và tầm quan trọng của quan hệ thương mại song phương.
Hành lang kinh tế Ấn Độ-Trung Đông-Châu Âu
Khi dự hội nghị G20 tại New Delhi, thủ tướng Giorgia Meloni đã ký thỏa thuận về hành lang kinh tế Ấn Độ-Trung Đông-Châu Âu, dự án mà tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden ủng hộ, và khẳng định rằng đây là « một khoản đầu tư lớn ». Như vậy, trọng tâm chính trị-kinh tế của Ý đã chuyển sang các vị trí dễ chấp nhận hơn đối với Hoa Kỳ và Liên Hiệp Châu Âu. Theo Biden, hành lang này « sẽ tạo việc làm và tăng cường an ninh lương thực. Đó là một khoản đầu tư đại diện cho một bước ngoặt. Hãy cùng nhau đoàn kết làm việc. »
Trên thực tế, đằng sau việc ngừng tham gia Sáng kiến Vành đai và Con đường không chỉ có lý do kinh tế thuần túy, mà còn có bàn tay của Hoa Kỳ nhằm giảm bớt ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới. Con đường Tơ lụa Mới sẽ được thay thế bằng Hành lang Kinh tế Ấn Độ-Trung Đông-Châu Âu.
Đối với chính phủ Meloni, vốn đi theo chủ nghĩa Đại Tây Dương rõ ràng và không thể thay đổi, việc gia nhập trung tâm kinh tế mới là điều hiển nhiên. Bên lề hội nghị G20 ở New Delhi, thủ tướng Giorgia Meloni đã ký cam kết với đường lối mới. Ngoài Ý và Mỹ, thỏa thuận mới còn có sự tham gia của Ả Rập Xê Út, Liên Hiệp Châu Âu, Ấn Độ, Đức, Pháp và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất.
Thu, 22 Feb 2024 - 88 - Huy động binh sĩ Ukraina: Kiev đối mặt khó khăn nhân khẩu và kinh tế
Ngày 07/02/2024, Quốc Hội Ukraina đã tạm thời thông qua dự luật động viên binh sĩ hạ thấp tuổi tòng quân từ 27 xuống 25. Văn bản này còn phải được đưa ra tranh luận lần hai trước khi được chính thức thông qua. Ngoài việc cần có thêm nhiều binh sĩ cho chiến trường, Kiev còn phải cân đối các mối bận tâm liên quan đến kinh tế, thuế khóa và đạo đức.
Vào tháng 12/2023, tổng thống Volodymyr Zelensky cho biết quân đội muốn huy động thêm 500 ngàn người. Thông báo này đưa ra vào lúc các lực lượng chiến đấu của Ukraina đang hứng chịu nhiều tổn thất mà tầm mức vẫn được giữ bí mật.
Lệnh động viên : Một đạo luật cần thiết !
Một dự luật đầu tiên được trình ở Nghị Viện trong mùa lễ Noel đã làm dấy lên nhiều tranh cãi dữ dội. Văn bản dự trù hạ thấp tuổi tòng quân từ 27 xuống 25, hạn chế hoãn nhập ngũ đối với những người khuyết tật nhẹ và tăng hình phạt đối với những người trốn quân dịch. Nhưng nhiều người nghị sĩ khẳng định văn bản này không được xây dựng rõ ràng và bao gồm cả những vi phạm nhân quyền.
Sau nhiều tuần tranh luận gay gắt, ngày 11/01, Nghị Viện Ukraina đã rút dự thảo luật. Bộ trưởng Quốc Phòng Rustem Umerov tuyên bố dự luật sẽ được tu chỉnh và trình lên chính phủ để phê duyệt. Trên mạng xã hội Facebook, ông khẳng định « dự luật này là cần thiết cho việc bảo vệ quốc gia và mỗi binh sĩ chiến đấu trên chiến trường. Văn bản này phải được thông qua nhanh nhất có thể ».
Như vậy, văn bản được thông qua hôm 07/02 là một phiên bản đã có sửa đổi. Nhà báo Alla Lazaréva, phó tổng biên tập trang mạng thông tin The Ukrainian Week, trả lời RFI Tiếng Việt, giải thích một số điểm chính của dự luật động viên mới.
« Trước tiên, đợt huy động binh sĩ lần này là để có thể thay thế những người chiến đấu trên mặt trận từ đầu cuộc xâm lược của Nga. Có rất nhiều người bị gọi nhập ngũ ngay từ tháng 02/2022 vẫn chưa được thay thế từ hai năm qua và bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Chủ yếu vì lý do này mà Ukraina muốn huy động bổ sung một lượng lớn quân.
Chính quyền Kiev có thể gọi nhập ngũ từ 27 cho đến 60 tuổi với điều kiện đó là những người có sức khỏe tốt và không có chống chỉ định y tế. Dự luật chưa được thông qua, đây chỉ là lần bỏ phiếu thứ nhất. Lần thứ hai vẫn biết ngày nào sẽ tranh luận. Nhưng quả thật có nhiều điểm bất đồng liên quan đến vấn đề số người phải huy động, những vùng có liên quan hay vấn đề người Ukraina ở nước ngoài : Họ có thể được huy động hay không ? Nếu có thì trong điều kiện nào ? Vẫn còn tất cả những cuộc tranh luận này ! »
Theo Trung tâm Truyền thông Quân sự Nhà nước và Global Firepower Index, quân đội Ukraina hiện có đến 850 ngàn lính. Với việc huy động quân bổ sung, số binh sĩ chiến đấu trên tuyến đầu từ hai năm qua đã kiệt sức sẽ có thể về nhà mà quân Ukraina vẫn chống cự được với 617 ngàn quân Nga được triển khai dọc theo các đường chiến tuyến.
Sai lầm chiến lược !
Tuy nhiên, nếu như trong những tuần đầu tiên của cuộc chiến, bùng nổ vào tháng 02/2022, người dân Ukraina sôi sục nhập ngũ, thì sau nhiều tháng chiến sự đẫm máu, tiếp tục cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người, tinh thần hăng hái ban đầu đó cũng đã biến mất, theo như ghi nhận của nhà báo Alla Lazaréva:
« Phải nói rằng những ai muốn ra đi chiến đấu thì họ đã đi rồi. Còn đối với những ai giờ mới bị gọi nhập ngũ, họ hiểu rằng đó là nghĩa vụ, nhưng đôi khi họ không còn động lực như trong đợt động viên đầu tiên. Nhưng đa số người dân hiểu rằng đất nước đang gặp nguy hiểm và sự tồn vong của quốc gia cũng đang gặp nguy hiểm. Đúng vậy, họ có thể đón nhận điều đó không phải với một sự nhiệt tình cao độ, mà đúng hơn là như một nghĩa vụ. »
Trả lời báo Pháp Le Figaro, chuyên gia quân sự Yevhen Dykyy, cựu chỉ huy binh đoàn Aidar, chỉ trích rằng dự luật này lẽ ra phải được đưa ra từ mùa thu 2022:
« Ngay từ đầu cuộc động viên ồ ạt ở Nga, đợt huy động quân lớn nhất kể từ năm 1945, rõ ràng sớm hay muộn Ukraina cũng sẽ phải làm tương tự. Nga đã huy động 450 ngàn người vào năm 2022 và bổ sung nửa triệu quân vào năm 2023. Nhưng chính quyền Kiev lúc đó vẫn nuôi ảo tưởng rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc và muốn tránh đưa ra một quyết định có thể trả giá đắt về mặt chính trị. Chính phủ cũng như các chính trị khách đều sai lầm trong việc phân cấp mức độ sợ hãi. Nỗi sợ mất cử tri mạnh hơn nỗi lo bị Nga chiếm đóng ! »
Về điểm này, nhà báo Alla Lazaréva thừa nhận phần nào thế bị động của chính quyền Kiev:
« Tôi nghĩ rằng chúng tôi đã không chuẩn bị chu đáo để đối phó với cuộc chiến xâm lược này, dù rằng Ukraina đã được các cơ quan tình báo nhiều nước phương Tây cảnh báo rằng cuộc xâm lược này đang được chuẩn bị, và sắp xảy ra. Đúng là việc chuẩn bị có thể phải được thực hiện một cách chín chắn và có tổ chức hơn. Nhưng tôi cho rằng các nhà lãnh đạo của chúng tôi, cho đến tận giây phút cuối cùng, đã không thể hình dung rằng Nga lại dám tấn công chúng tôi bằng máy bay, bằng bom, với rất nhiều thường dân thiệt mạng như vậy ! »
Thách thức nhân khẩu
Nếu như văn bản này vẫn còn mơ hồ về vấn đề giải ngũ cho những người đã đi chiến trường từ hai năm qua theo như đòi hỏi của nhiều người dân, phần đông là các bà mẹ, vợ và chị em các quân nhân, thì Ukraina phải đối mặt với vấn đề nguồn nhân lực hạn hẹp. Đất nước rộng hơn 603 ngàn cây số vuông chỉ có khoảng 43,5 triệu dân, ít hơn gấp ba lần so với dân số của Nga, có đến hơn 145 triệu người.
Theo Le Figaro, lệnh động viên mới này có nguy cơ làm xói mòn hơn nữa tình hình nhân khẩu. Chính quyền Kiev đối mặt với thách thức phải tuyển mộ những người trẻ tuổi hơn. Liệu dự án này có thể thực hiện vào lúc có nhiều dự phóng dân số Ukraina sẽ bị suy giảm ? Phó tổng biên tập trang mạng The Ukrainian Week lạc quan tin là Ukraina có đủ nguồn lực để bảo vệ đất nước.
« Chiến tranh đã làm cho tình hình nhân khẩu của Ukraina thêm tồi tệ, vì có nhiều triệu người đã bỏ xứ ra đi, phần đông là phụ nữ với trẻ em. Giờ có những đứa trẻ đã lớn lên ở nước ngoài. Chiến tranh kéo dài tại Ukraina từ 10 năm qua. Nga bắt đầu gây hấn từ năm 2014 bằng việc sáp nhập bán đảo Crimée và xâm lược Donbass. Quả thật là có rất nhiều người đã ra đi. Rồi nhiều đứa trẻ, trai hay gái đã trưởng thành. Nhiều phụ nữ tham gia quân đội, tôi nghĩ là có khoảng 1/3. Đúng là tình hình nhân khẩu đáng lo ngại và đang đặt ra nhiều vấn đề. Nhưng dẫu sao Ukraina cũng là một đất nước rộng lớn có hơn 40 triệu dân, vì vậy, chúng tôi vẫn có một nguồn lực để bảo vệ đất nước. »
Cân đối nhu cầu quân sự và kinh tế : Bài toán khó
Theo trang mạng Politico, bên cạnh vấn đề nhân lực, dự luật huy động quân của Ukraina còn phải đối mặt với một áp lực to lớn khác. Có tổng sản phẩm quốc nội khoảng 214 tỷ đô la, Ukraina phải dành ra hơn 1/5 của GDP, tức khoảng 46 tỷ đô la, cho nỗ lực chiến tranh.
Phân nửa trong khoản ngân sách này được dùng để trả lương cho binh lính và một phần tư là cho ngành công nghiệp quốc phòng. Một cách đơn giản, toàn bộ ngân sách chính phủ Ukraina là dành cho chiến tranh. Còn hàng tỷ tiền viện trợ từ Liên Hiệp Châu Âu và từ Mỹ là để góp phần tài trợ cho phần còn lại của nền kinh tế.
Tuy nhiên, nguồn hỗ trợ tài chính này hiện đang bị Washington chặn lại do vấp phải sự phản đối từ nhiều nghị sĩ đảng Cộng Hòa. Điều đó buộc Kiev phải tìm cách cân đối giữa việc tìm đủ số binh lính mới để tiếp tục cuộc chiến, đồng thời đảm bảo vẫn có đủ người nộp thuế và công nhân để duy trì nền kinh tế và cỗ máy công nghiệp chiến tranh.
Nỗi lo này đã được tổng thống Volodymyr Zelensky thể hiện hồi tháng 12/2023. « Việc huy động thêm từ 450 ngàn đến 500 ngàn người sẽ tiêu tốn của đất nước khoảng 12 tỷ euro và tôi muốn biết số tiền đó sẽ đến từ đâu. Xét rằng phải cần đến sáu thường dân lao động Ukraina đóng thuế để trả lương cho một người lính, tôi sẽ phải cần thêm ba triệu người lao động đâu đó để có thể trả lương cho số quân bổ sung này ».
Nghĩa vụ và đạo đức công dân
Ngày 11/01, từ Estonia, tổng thống Ukraina đã kêu gọi tất cả những công dân nào, nếu không ra trận thì có thể làm việc đóng thuế cho đất nước, cử chỉ này cũng là hành động bảo vệ quốc gia. Tổng thống Ukraina nói thêm những người Ukraina đã chạy khỏi đất nước, không chiến đấu và không nộp thuế phải đối mặt với vấn đề đạo đức.
Nhà phân tích chính trị Ukraine Volodymyr Fesenko cho biết dự luật huy động binh lính rất không được lòng dân, nên các chính trị gia ngại tự đề xuất. Làm thế nào cân bằng lợi ích tối ưu giữa việc thỏa mãn các nhu cầu quân sự, các năng lực và nhu cầu tài chính – kinh tế của quốc gia ; giữa tiền tuyến và hậu phương, đây sẽ là một bài toán khó cho ông Zelensky.
Nhiều mối lo ngại cho rằng viết rút đàn ông ra khỏi văn phòng, nhà xưởng và bắt họ mặc đồng phục có thể sẽ làm tổn hại đến nền kinh tế. Với Kazarin, một binh sĩ Ukraina, mối lo này có lẽ đã bị thổi phồng quá mức.
Ông kết luận : « Họ chỉ quên rằng trong trường hợp động viên thành công, tất cả những người đã cầm vũ khí trong vài năm qua sẽ được giải ngũ sau một năm nữa. Nhiều người phục vụ trong quân đội hiện nay là những doanh nhân, chuyên gia và chuyên viên công nghệ thông tin khá thành đạt trước chiến tranh. Họ đã giữ mặt trận trong hai năm để lại hậu phương cho quý vị. Và giờ thì đến lượt quý vị ! »
Đây cũng là lời kêu gọi của nhật báo Lviv tại Ukraina !
Thu, 15 Feb 2024 - 87 - Quan hệ Vatican - Đài Loan trong tương quan với Trung Quốc
Ngày 08/01/2024, giáo hoàng Phanxicô đã có buổi gặp gỡ đầu năm với những đại diện ngoại giao của các nước có quan hệ chính thức với Tòa thánh Vatican. Một ngày trước đó, một báo cáo tổng kết về các mối quan hệ ngoại giao của Tòa Thánh cũng đã được công bố. Từ Liège, Bỉ, linh mục Phạm Hoàng Dũng có bài nhận định.
Theo báo cáo nói trên, quốc gia nhỏ bé này có quan hệ chính thức với 184 quốc gia và hai tổ chức là Liên Hiệp Châu Âu và Dòng Malta. Tòa Thánh chưa có quan hệ với 11 quốc gia. Bảy quốc gia trong số này không có đặc sứ Vatican hiện diện (Afghanistan, Ả Rập Xê Út, Bhutan, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Maldives, Tuvalu). Các nước còn lại đều đã có sự hiện diện của vị đại diện thường trú của Tòa Thánh, mà mới nhất là Việt Nam.
Trong số các quốc gia mà Tòa thánh có quan hệ ngoại giao, còn có Trung Hoa Dân Quốc hay Đài Loan. Tuy nhiên, kể từ năm 1972, không còn có sự hiện diện của vị Sứ thần Tòa Thánh tai hòn đảo này nữa, mà chỉ có một « đại biện lâm thời ».
Trong các cuộc đàm phán với Trung Quốc dẫn đến Thỏa thuận tạm thời và một phần lịch sử về việc bổ nhiệm giám mục vào tháng 9 năm 2018, được gia hạn thêm hai năm nữa vào năm 2020 và sau đó một lần nữa vào tháng 10 năm 2022, vấn đề quan hệ ngoại giao dường như vẫn chưa được giải quyết.
Về phía Đài Loan, tòa đại sứ duy nhất của họ còn lại trên đất châu Âu là bên cạnh Tòa Thánh. Nhưng trong niên giám ngoại giao của Tòa Thánh Vatican, Đài Loan hay Trung Hoa Dân Quốc vẫn được ghi dưới danh mục Trung Quốc.
Tương quan giữa Vatican và « HAI » Trung Quốc ?
Trước tiên, khi nói đến Tòa Thánh, chúng ta liên tưởng ngay đến một tổ chức của Giáo hội Công Giáo. Tổ chức này không giới hạn về mặt địa lý ở 40 ha giữa lòng thủ đô Roma của nước Ý, mà đó là một mối liên hệ thiêng liêng của người đứng đầu Giáo Hội, hiện là Đức giáo hoàng Phanxicô, với hơn một triệu tín hữu Công Giáo trên khắp thế giới bao gồm cả Trung Quốc và Đài Loan. Cho dù có sự ngăn cản về mặt chính trị, như ta thấy ở Trung Quốc lục địa, không giới hạn hay cản trở đức tin của những tín hữu này.
Khi ta nói đến « HAI » nước Trung Quốc, điều này không chỉ có nghĩa là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), mà chúng ta cũng nói đến sự hiện hữu song song ngay tại Trung Quốc Lục Địa, hai giáo hội Công Giáo, một của Nhà Nước (gọi là Hội Công Giáo Yêu Nước) và một giáo hội quen gọi là "thầm lặng", không được nhà nước Trung Quốc công nhận.
Sự tồn tại song song của hai thực thể này đã có thể được giải quyết sau thỏa thuận giữa Tòa Thánh và Bắc Kinh năm 2018 và được tái ký kết vào tháng 10/2022. Theo thỏa thuận, Vatican sẽ là bên quyết định quyền bổ nhiệm các giám mục mà nhà nước Trung Quốc không có quyền can thiệp vào. Nhưng gần đây, Bắc Kinh lại can thiệp vào việc bổ nhiệm giám mục Thượng Hải và Hồng Kông, cũng như bắt bớ giám mục Peter Shao Zhumin của giáo phận Ôn Châu, chỉ được thả ra khỏi nơi giam giữ vài ngày trước lễ Giáng sinh.
Vatican và Trung Quốc
Về mặt chính thức là một quốc gia vô thần, Trung Quốc cho phép nhiều tôn giáo tồn tại, mặc dù mỗi tôn giáo đều chịu sự giám sát chặt chẽ của Cục Tôn giáo Nhà nước, và các tín đồ tôn giáo phải « phụ thuộc và phục vụ lợi ích chung của quốc gia và nhân dân Trung Quốc… và ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. »
Đối với Giáo hội Công Giáo, điều này có nghĩa là các giám mục Công Giáo phải được bổ nhiệm bởi Hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc do nhà nước kiểm soát, thay vì Vatican. Chính sách này đã dẫn đến việc Vatican đã từng rút phép thông công bảy giám mục Trung Quốc được Bắc Kinh bổ nhiệm mà không có sự chấp thuận của Vatican.
Theo thỏa thuận giữa Trung Quốc và Tòa Thánh năm 2018, Bắc Kinh công nhận giáo hoàng Phanxicô là người đứng đầu Giáo hội Công Giáo ở Trung Quốc, trong đó giáo hoàng có tiếng nói cuối cùng trong việc bổ nhiệm các giám mục và Vatican cuối cùng đã công nhận bảy giám mục « bất hợp pháp ». Thỏa thuận này đã được tái ký hai lần vào những năm 2020 và 2022. Theo lịch trình thì vào tháng 10 tới, hai bên sẽ xem xét việc tái ký kết.
Theo trang The Pillar của Hoa Kỳ, không chỉ có các giám mục ở Hồng Kông và Thượng Hải được bổ nhiệm không có sự đồng ý từ Toà Thánh, mà ở nhiều nơi, Bắc Kinh đang cho vẽ lại bản đồ các giáo phận và qua đó đưa các linh mục của Hội Công Giáo yêu nước vào nắm giữ điều hành các giáo xứ và các giáo phận. Như trường hợp của giáo phận Ôn Châu. Và như thế khi vào thương thảo với Vatican thì mọi chuyện coi như đã rồi.
Vatican và Đài Loan
Năm 1949, Tưởng Giới Thạch rút lui ra đảo Đài Loan để lập nên Trung Hoa Dân Quốc. Đi theo ông có khoảng 800.000 binh sĩ và một triệu người dân, trong đó có đông người Công Giáo. Trong mười năm, từ 1950-1960, Đài Loan đã chứng kiến sự gia tăng vượt bực về số lượng linh mục tu sĩ Công Giáo và những hoạt động sinh hoạt tôn giáo do giới Công Giáo điều hành, như trường học, bệnh viện, v.v… Đài Loan từ đó là điểm đến lý tưởng cho những nhà truyền giáo và các dòng tu Công Giáo, với hy vọng một ngày nào đó sẽ từ đây bước chân sang Trung Hoa Lục Địa.
Tưởng Giới Thạch và sau này là con trai đã thiết lập nên chế độ cai trị quân sự trong suốt nhiều thập niên, gây nên nhiều chia rẽ trong sinh hoạt chính trị và đời sống xã hội của người dân Đài Loan, giữa người Hoa đến từ lục địa và người Đài địa phương. Giáo hội Đài Loan tuy hoạt động mạnh mẽ và độc lập với chính phủ Quốc Dân Đảng dưới thời Tưởng Giới Thạch, nhưng đôi lúc cũng bị kết án là ủng hộ Quốc Dân Đảng, điều không thể tránh khỏi nếu những linh mục tu sĩ có nguồn gốc gia đình ở Trung Quốc. Mặt khác, Giáo hội Đài Loan đã được truyền giáo từ thế kỷ XVII bởi các nhà truyền giáo Dòng Đa Minh Tây Ban Nha.
Nhưng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã phủ bóng đen lâu dài. Chính trị, các mối quan hệ gia đình và các ưu tiên của Giáo hội đều bị ảnh hưởng bởi câu hỏi: Mối quan hệ giữa « HAI » nước Trung Quốc sẽ tiến triển như thế nào? Chính phủ hiện tại tuyên bố độc lập trên thực tế, nhưng Trung Quốc vẫn coi Đài Loan là một tỉnh "bất hảo" và thực hiện các chính sách công khai để đặt hòn đảo này dưới sự kiểm soát của mình.
Có một trò chơi kéo co trên đảo giữa hội nhập và độc lập, tác động đến cuộc tranh luận trong công chúng ở mọi cấp độ. Tòa Thánh, quốc gia châu Âu duy nhất công nhận Đài Loan về mặt ngoại giao, cũng có liên quan.
Trong khi đó, Giáo hội địa phương cố gắng giữ vững lập trường của mình. Vì nhiều lý do, Giáo hội này đã không phát triển. Số thành viên dao động trên dưới 300.000, mặc dù dân số đã tăng gấp ba lần kể từ năm 1950 lên 23,6 triệu.
Dưới thời Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, Giáo hội Đài Loan được xem là nơi đào tạo các linh mục tu sĩ không chỉ cho Trung Quốc và chuẩn bị cho việc Trung Quốc mở cửa về mặt chính trị và tôn giáo sau việc mở cửa kinh tế. Đại học Phụ Nhân là một ví dụ. Đại học này vốn được thành lập ở Trung Quốc từ những năm 1920, nhưng sau khi Mao Trạch Đông lên nắm quyền thì Đại học này chuyển sang Đài Loan và được điều hành bởi các tu sĩ Dòng Tên và Dòng Ngôi Lời, dưới sự bảo trợ của Tòa Thánh. Và hiện nay, đại học này đã có những chi nhánh ở Trung Quốc.
Tuy vẫn giữ vị thế độc lập bên cạnh các chế độ chính trị của Đài Loan, vì tự chủ về tài chính, Giáo hội Công giáo đôi khi bị cho là không quan tâm đến những người dân Đài Loan, mà chỉ chú trọng vào Trung Hoa Lục Địa, chẳng hạn số lượng linh mục tu sĩ người Đài sinh ra và lớn lên tại hòn đảo này vẫn là thiểu số so với các linh mục tu sĩ đến từ Trung quốc, hay có mối liên hệ gia đình từ lục địa, hay như vị giám mục duy nhất người Đài mới chỉ được truyền chức vào năm 1985. Hay dưới chính quyền quân phiệt, nhiều linh mục tu sĩ bị coi là ủng hộ chế độ quân sự của tổng thống Tưởng Giới Thạch.
Đài Loan trong thế bao vây ngoại giao của Trung Quốc
Trung Quốc vốn xem Đài Loan như một tỉnh nổi loạn cần phải được hợp nhất, nên Bắc Kinh đã thực hiện chính sách ngoại giao bao vây đối với Đài Loan trên bình diện quốc tế, nhằm thực hiện chính sách một nước Trung Hoa duy nhất. Mặt khác, Đài Loan cũng phải cố duy trì những mối tương giao của mình với các nước và các tổ chức quốc tế, để có được một không gian quốc tế nhằm củng cố vị thế của mình.
Trong nhiệm kỳ của tổng thống Mã Anh Cửu, không gian quốc tế của Đài Loan đã được duy trì ổn định nhờ vào một « thoả thuận đình chiến ngoại giao ngầm » với Bắc Kinh: Trung Quốc sẽ không tìm cách thuyết phục bất kỳ đối tác ngoại giao trong 23 nước vẫn giữ quan hệ với Đài Bắc chuyển sang phía Bắc Kinh. Chỉ có ngoại lệ là Gambia, nhưng nước này không được Trung Quốc chấp nhận dù đã cắt đứt quan hệ với Đài Loan.
Khi duy trì những mối quan hệ quốc tế này, Đài Loan không thu được nhiều lợi ích về mặt kinh tế, nếu không muốn nói là những quan hệ đó trở thành gánh nặng tài chính và nguyên nhân bất ổn chính trị cho chính phủ Đài Loan. Nhưng việc duy trì và bảo vệ những mối quan hệ chính thức này là vấn đề quan trọng cho Đài Loan nhằm giữ được vị thế của nước này trên bình diện quốc tế, điều mà Bắc Kinh hoàn toàn không mong muốn.
Vì thế, trong hai nhiệm kỳ tổng thống của bà Thái Anh Văn, Đài Bắc đã mất đi phân nửa số đối tác ngoại giao chính thức của mình. Gần đây nhất là đảo quốc Nauru ở Thái Bình Dương đã quy hàng về Bắc Kinh hôm 15/01/2024, chỉ hai ngày sau thắng lợi của ứng cử viên tổng thống Lại Thanh Đức. Ông là người theo đường lối của tổng thống mãn nhiệm chống lại Bắc Kinh. Đó cũng là dấu hiệu của Bắc Kinh dành cho tổng thống tân cử. Như đã từng xảy ra khi bà Thái Anh Văn lên nắm quyền, hàng loạt các đối tác ngoại giao chính thức của Đài Bắc tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao để bắt tay với Bắc Kinh.
Ngày càng có nhiều lo ngại rằng Bắc Kinh sẽ nhắm vào Vatican, nơi Trung Quốc có đòn bẩy vì hàng triệu người Công Giáo Trung Quốc có thể được hưởng lợi từ mối quan hệ được cải thiện giữa Tòa Thánh và CHND Trung Hoa. Mất Vatican sẽ là một đòn rất đau đối với yếu tố dựa trên quan hệ ngoại giao trong tuyên bố của Đài Loan về không gian quốc tế. Với vai trò của giáo hoàng là nhà lãnh đạo tinh thần của hơn một tỷ người Công Giáo, Vatican có ý nghĩa chính trị quốc tế vượt xa quy mô nhỏ bé của mình.
Mối quan hệ chính thức của Đài Loan với Vatican cũng cộng hưởng với một thành phần quan trọng của nhân quyền quốc tế: tự do tôn giáo, một lĩnh vực mà những thành tựu trong nước của Đài Loan là chủ đề quan trọng trong nỗ lực tìm kiếm vị thế quốc tế của Đài Loan, được đề cập cụ thể trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ hai của bà Thái Anh Văn.
Vatican cũng là đối tác ngoại giao cuối cùng của Đài Loan ở châu Âu và bên ngoài thế giới đang phát triển. Đối mặt với những lo lắng này, chính phủ của bà Thái Anh Văn đã nỗ lực duy trì mối quan hệ với Vatican. Điều này đã được Vatican đảm bảo trong những lần ký kết và tái ký thoả hiệp với Trung Quốc vào những năm 2018, 2020, 2022 và có thể vào tháng 10 này.
Đài Loan dưới thời bà Thái Anh Văn đã giành được chiến thắng trong việc xây dựng mối quan hệ không chính thức với Mỹ, Nhật Bản và các nước khác. Nhưng sự tiến bộ còn hạn chế, không đồng đều, mong manh và mang tính ngẫu nhiên. Dưới sự lãnh đạo của tổng thống Thái Anh Văn, như trước đây, Đài Loan đã chơi tốt ở thế yếu, áp dụng chiến lược đa phương nhằm theo đuổi những cơ hội tương đối hứa hẹn và phát huy thế mạnh tương đối của Đài Loan. Hoàn cảnh đã thay đổi, trong đó có nhiều bất lợi cho Đài Loan trong những năm gần đây. Nhưng những thay đổi này không hoàn toàn xấu đối với Đài Loan, cũng như các xu hướng tiêu cực chưa chuyển biến về chất hoặc chưa nhất thiết không thể đảo ngược.
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn Linh mục Phạm Hoàng Dũng.
Thu, 08 Feb 2024 - 86 - Toàn cầu hóa thúc đẩy cuộc đua tái trang bị hải quân giữa các đại cường
Từ hơn một thập niên qua, cuộc đua tăng cường sức mạnh hải quân được tăng tốc với mục tiêu là nhằm khẳng định vị thế và bảo vệ các lợi ích quốc gia. Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai nước dẫn đầu cuộc đua, đang đối đầu nhau ở vùng Đông Á và đang tranh vị thế siêu cường hải quân hàng đầu thế giới. Theo nhiều chuyên gia, sau nhiều thập kỷ có vẻ yên bình, nguy cơ xảy ra trận bão hải chiến một lần nữa là một giả thuyết hợp lý !
Nhờ vào khả năng bảo đảm khối hàng hóa lớn, đáng tin cậy và chi phí thấp, vận tải đường biển đang trở thành cột sống hậu cần cho chuỗi giá trị toàn cầu. Từ khi Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc và cho đến khi xảy ra khủng hoảng tài chính năm 2008, tăng trưởng trong ngành thương mại quốc tế tăng nhanh hơn là mức tăng trưởng của sản xuất. Hơn 80% khối lượng giao thương quốc tế được thực hiện bằng đường biển. Số liệu thống kê năm 2019 cho thấy tổng khối lượng hàng hóa giao thương là 11 tỷ tấn, tăng gấp 20 lần so với năm 1950, chỉ đạt mức 550 triệu tấn.
Làm chủ biển cả, thống lĩnh thương mại
Toàn cầu hóa cũng làm thay đổi các lộ trình vận chuyển. Cho đến những năm 1970, đó là một thế giới của « Đại Tây Dương ». Các tuyến đường vận tải biển quan trọng nhất tập trung chủ yếu giữa những cảng biển Bắc Âu và vùng duyên hải phía đông của Bắc Mỹ. Nhưng việc chấm dứt các chế độ thuộc địa, sự trỗi dậy của các nước Đông Á trên trường kinh tế quốc tế đã dần dịch chuyển trọng lực kinh tế hàng hải thế giới sang vùng Đông Á.
Sự thay đổi này còn diễn ra toàn diện với việc Trung Quốc ngày càng khẳng định là một cường quốc hàng đầu kể từ những năm 2000. Nếu như lúc ban đầu, con đường hàng hải lớn nhất ở Đông Á chủ yếu là trục Tokyo – Singapore, sau này có thêm các cảng biển Busan của Hàn Quốc, Cao Hùng ở Đài Loan và Hồng Kông trong những năm 1990, thì những trục vận chuyển đường biển này đã bị di dời về phía tây, Trung Hoa Lục Địa.
Bên cạnh đó, các cường quốc Đông Á này còn vướng phải một điểm yếu lớn : Sự phụ thuộc đến hơn 80% vào nguồn dầu lửa Trung Đông. Do vậy, con đường vận tải biển lớn vẫn là châu Á, đi từ Vịnh Ba Tư đến Trung Quốc, băng qua các eo biển Hormuz và Malacca. Đảo quốc Singapore nằm trên tuyến đường hàng hải lý tưởng này, cùng với Rotterdam (Hà Lan) và Houston (bang Texas của Mỹ) là một trong ba điểm tinh lọc và trung chuyển dầu hỏa lớn nhất thế giới.
Nhưng người xưa có câu : « Ai muốn kiểm soát thương mại phải làm chủ biển cả ». Sự toàn cầu hóa « hạnh phúc » này làm lộ rõ một tình trạng « cực kỳ » phụ thuộc vào biển cả. Và hiện tượng « hàng hải hóa » này, theo như cách nói của ông Cyrille Coutansais, giám đốc nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Hải quân, giảng viên trường đại học Khoa học Chính trị Sciences Po, trên đài RFI, đã buộc một số nước nhất định phải đầu tư cho lực lượng Hải quân để bảo vệ các dòng hàng hóa vận chuyển, cũng như là bảo vệ chủ quyền vùng không gian lãnh hải của mình.
Cũng theo ông Cyrille Coutansais, điều này đã dẫn đến việc « xáo lại » các quân bài quan trọng ở cấp độ cường quốc hải quân: « Quá trình toàn cầu hóa này đã tạo điều kiện cho sự trỗi dậy của một số nước có đủ nguồn lực để đầu tư cho hải quân. Điều đáng lưu ý là đầu tư cho Hải quân tốn rất nhiều tiền, hơi giống một câu lạc bộ các nước giàu. Điều này giải thích vì sao cho đến gần đây, đó chỉ là một câu lạc bộ gần như độc quyền cho các nước phương Tây. Bây giờ với toàn cầu hóa, người ta nhìn thấy một số quốc gia phát triển như Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ… những nước có khả năng đầu tư cho Hải quân. »
Biên giới biển mới và thế « tiến thoái lưỡng nan về an ninh »
Một nguyên nhân khác giải thích cho việc phát triển trở lại các năng lực hải quân là nhiều quốc gia có xu hướng tìm kiếm các nguồn tài nguyên biển ở những nơi khác để bù đắp cho những thiếu hụt ở trong nước. Đô đốc Bernard Rogel, cựu tham mưu trưởng Hải quân, nguyên tham mưu trưởng đặc biệt của các tổng thống François Hollande và Emmanuel Macron, trong chương trình Địa Chính Trị của RFI Tiếng Pháp, cho rằng điều đó gây ra những căng thẳng về tranh chấp lãnh hải đang diễn ra trên toàn cầu từ Đông sang Tây, từ Á đến Âu:
« Chúng ta nên biết là tình trạng này đang tạo ra những biên giới mới trên biển, bởi vì các quốc gia có nhu cầu tìm kiếm những gì họ thiếu chẳng hạn như các nguồn cá biển, vốn dĩ rất quan trọng đối với nhiều nước, cũng như các nguồn khí đốt, khoáng sản, dược thảo dồi dào ở biển. Rồi còn có vấn đề công nghệ nữa. Ở đây tôi muốn nói đến quá trình dân chủ hóa công nghệ, tức là phương Tây không còn độc quyền về công nghệ nữa. Người ta sẽ đi tìm ở biển những gì mà họ thiếu. Vì vậy, tình trạng này đang tạo ra điều mà tôi gọi là Những Biên Giới Mới, tức những vùng tranh chấp mới. »
Trung Quốc với vị thế là « công xưởng lớn nhất thế giới », phụ thuộc nhiều vào biển cả cho nhập khẩu nguyên nhiên liệu, lương thực – thực phẩm cũng như là xuất khẩu hàng hóa thành phẩm. Điều hiển nhiên và hợp lý là Bắc Kinh phải trang bị cho mình một lực lượng hải quân để tự bảo đảm nhu cầu an ninh. Nếu như Trung Quốc không thể và cũng không muốn ủy thác trách nhiệm này cho Hải quân Mỹ, thì điều nghịch lý là chính sách tăng cường năng lực hải quân của Trung Quốc cũng như nhiều cường quốc mới trỗi dậy khác phải đối mặt với « thế lưỡng nan an ninh ».
Trên làn sóng RFI Pháp ngữ, Maxence Brischoux, giảng viên ngành Quan hệ Quốc tế, trường đại học Paris II Panthéon Assas, giải thích :
« Nhìn từ điểm này trong lý thuyết quan hệ quốc tế, chúng ta đang đi đến điều được gọi là "tình thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh". Sự xuất hiện của nhiều cường quốc mới cùng với việc họ tự trang bị các phương tiện để bảo đảm an ninh cho mình đã có những tác động gây bất ổn. Đối với nhiều nước khác, lô-gic tái vũ trang này, một lần nữa, cho dù có tính chính đáng nhất định, có thể mang tính gây rối, nhất là khi điều đó đi kèm với những hành động được cho là hung hăng. Đó chính là những gì chúng ta quan sát được ở Biển Đông. Ta đang phải đối mặt với những hiện tượng lâu dài, đôi khi có thể bùng phát thành khủng hoảng, thậm chí là đi đến chiến tranh. Đây cũng là những gì chúng ta quan sát thấy hiện nay trong cuộc xung đột Nga - Ukraina, bởi vì khía cạnh hải quân có một tầm quan trọng đáng kể. »
Bốn tiêu chí cho cường quốc hải quân
Vậy đâu là các tiêu chí để đánh giá một cường quốc hải quân ? Về điểm này, Cyrille Coutansais cho biết:
« Xét về sức mạnh hải quân, tôi nghĩ điều quan trọng đầu tiên là tải trọng. Trên thực tế, chúng ta cộng toàn bộ khối lượng mỗi con tàu và như vậy chúng ta sẽ có được một tầm nhìn về sức mạnh hải quân dựa theo trọng tải. Quả thật, nếu nhìn vào trọng tải, Hoa Kỳ đang ở vị trí hàng đầu. Khía cạnh thứ hai là số lượng tàu. Trung Quốc có nhiều tàu hơn Mỹ, nhưng nếu xét về trọng tải, tức là về sức mạnh, thì Mỹ vẫn dẫn đầu.
Tiếp đến, chúng ta phải xem xét các khả năng mà hải quân một nước có thể triển khai. Ví dụ, nếu chúng ta nhìn vào hải quân Pháp, về mặt trọng tải Pháp thua xa Mỹ, kém hơn Trung Quốc, nhưng vẫn nằm trong phạm vi có khả năng triển khai. Chúng ta có thể triển khai tầu ngầm mang tên lửa đạn đạo (SSBN), tầu ngầm tấn công hạt nhân (SSN), nhóm tác chiến tàu sân bay. Có thể nói, chúng ta có đầy đủ các lãnh vực và điều này rất quan trọng để phát huy sức mạnh hải quân.
Một yếu tố khác cũng nên đề cập đến đó là khả năng có các điểm neo, tức là các cơ sở để chúng ta có thể cập cảng. Việc tiếp tế, các thuyền viên có điều kiện nghỉ ngơi vì nhiều lý do là điều cần thiết. Về điểm này, Pháp có thể trông cậy vào một số điểm neo đậu nhờ vào các vùng lãnh thổ hải ngoại.
Nhiều lực lượng hải quân khác không có cho nên đang tìm cách có được năng lực này, trong đó có Trung Quốc. Điều này có nghĩa là, khi quý vị muốn triển khai hải quân ở khắp các đại dương trên toàn thế giới, quý vị cần phải có khả năng trông cậy vào những điểm neo đậu ở hầu hết mọi nơi, và đó cũng là một phần của sức mạnh hải quân. »
Chỉ có điều sự trỗi dậy mạnh mẽ của hải quân Trung Quốc chỉ trong hơn hai thập niên khiến Hoa Kỳ và nhiều nước khác trong khu vực lo lắng. Năm 1988, Trung Quốc không có tên trong bảng sắp hạng năm cường quốc hải quân hàng đầu thế giới. Hơn ba thập kỷ sau, Trung Quốc vươn lên chiếm vị trí thứ hai, và đang trên đà qua mặt Mỹ. Lãnh đạo Hải quân Mỹ năm vừa qua báo động Trung Quốc hiện có tổng cộng hơn 350 tầu chiến và tầu ngầm, vượt qua Mỹ về mặt số lượng, vì Mỹ chỉ có hơn 290 chiếc.
Theo một báo cáo được bộ Quốc Phòng Mỹ công bố năm 2020, chỉ trong giai đoạn 2015-2019, Trung Quốc có lẽ đã tự mình xây dựng một lượng tầu tương đương với tải trọng do Mỹ và châu Âu gộp lại. Mục tiêu của ông Tập Cận Bình đề ra là từ đây đến năm 2030, Trung Quốc phải chiếm vị thế hải quân hàng đầu thế giới khi có đến 13 chiếc tầu ngầm trong khu vực.
Để đối phó với Bắc Kinh, năm 2020, Washington đề ra chiến lược mới mang tên « Thế ưu việt trên biển », khẳng định Hoa Kỳ phải làm chủ biển cả để đánh bại sức mạnh kẻ thù, bảo vệ tổ quốc và bảo vệ các đồng minh. Hoa Kỳ phải tiến hành một chương trình hiện đại hóa táo bạo và cần thiết cho lực lượng hải quân, để duy trì khả năng răn đe và bảo đảm lợi thế trên biển. Và lợi thế này phải được bắt đầu bằng sự vượt trội về số lượng cũng như chất lượng.
Trong cuộc đua này, Hoa Kỳ chưa phải là quốc gia đơn độc. Việc Trung Quốc gia tăng sức mạnh hải quân khiến nhiều nước châu Á trong khu vực cũng phải điều chỉnh chính sách quốc phòng. Hàn Quốc, Nhật Bản hay Ấn Độ đầu tư ồ ạt phát triển các loại tàu phóng tên lửa hay tầu ngầm. Nhiều quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam, Philippines, Indonesia, Malaysia cũng tăng cường hạm đội tầu chiến và trang bị nhiều vũ khí tân tiến hơn, để đối phó với các tham vọng biển cả và những đòi hỏi chủ quyền lãnh hải quá đáng của Trung Quốc.
Việc tăng cường số lượng trang thiết bị hải quân cũng đi kèm với việc phát triển và đổi mới kho vũ khí bằng loạt công nghệ mới. Hiện tại, xu hướng phát triển các loại drone biển được cho là mốt thời thượng do chi phí sản xuất thấp, phương thức hoạt động kín đáo và hiệu quả cao hơn nhờ vào việc có thể kéo dài thời gian hoạt động sâu dưới biển cho các nhiệm vụ trinh sát, thậm chí là tấn công.
Và trong trường vũ khí mới này, hệ thống hướng dẫn bằng trí tuệ nhân tạo đang được phổ biến nhất là trên phương diện ngăn chặn và khả năng phòng thủ tên lửa. Chiến tranh Ukraina hẳn là một chiến trường thực nghiệm cung cấp nhiều điều bổ ích cho các đại cường !
Thu, 01 Feb 2024 - 85 - Viện trợ vũ khí cho Ukraina : Pháp có thể đóng góp nhiều hơn ?
Ngày 16/01/2024, tổng thống Pháp Emmanuel thông báo giao thêm 40 tên lửa hành trình địa đối không Scalp và 500 quả bom dẫn đường AASM cho Ukraina. Hai ngày sau, ngày 18/01, bộ trưởng Quân Lực Pháp Sebastien Lecornu chính thức ra mắt « liên minh pháo binh », nhằm tài trợ và cung cấp 78 khẩu đại bác Caesar cho Ukraina trong năm 2024. Liệu Paris có đủ phương tiện để thực hiện các cam kết vào lúc khả năng sản xuất vũ khí của Pháp thấp hơn rất nhiều so với nhu cầu của Ukraina ?
Những thông báo này được đưa ra vào lúc một báo cáo của Ủy ban Đối ngoại và Quốc phòng Thượng Viện Pháp, được công bố ngày 17/01, kêu gọi nước Pháp tăng tốc càng nhanh càng tốt hậu thuẫn quân sự cho Ukraina. Chủ tịch ủy ban Cedric Perrin cùng với ba thượng nghị sĩ khác, sau chuyến thăm Kiev hồi cuối tháng 12/2023, đã lấy làm tiếc là hậu thuẫn của phương Tây dành cho Ukraina đã suy giảm mạnh.
Báo cáo của Thượng Viện Pháp nêu rõ : « Trợ giúp của phương Tây đang hụt hơi và tình hình ở Ukraina ngày càng trở nên phức tạp. Trong giai đoạn tháng 5 đến 12/2023, Nga vẫn chiếm ưu thế. Quân số Nga trên mặt trận dường như đã được tăng thêm 20% và số lượng xe tăng, khẩu đại pháo tăng 60% ».
Bốn thượng nghị sĩ Pháp cảnh báo : « Nga rất có thể mở lại chiến dịch trên bộ quy mô lớn trước thềm bầu cử tổng thống Mỹ. Một cuộc tấn công mới của Nga nhắm vào Kiev là không thể loại trừ trong trung hạn nếu nguồn hậu thuẫn của phương Tây bị thất bại ».
Pháp : Nhà hảo tâm xếp thứ 15 ?
Theo số liệu chính thức, tính từ đầu cuộc xung đột, Paris đã giao cho Kiev nhiều trăm đơn vị, đủ loại vũ khí, từ đại bác Caesar, pháo kéo TRF1, hệ thống pháo phản lực đơn nòng (LRU), nhiều loại xe bọc thép, rồi còn có tên lửa hành trình không đối địa Scalp, các loại hệ thống phòng không SAMP/T và Crotal NG, hệ thống radar Ground Master 200, tên lửa Mistral, Milan và Akeron MP, cũng như drone trinh sát, nhiều thiết bị thăm dò phát hiện tấn công mạng hiệu quả…
Dù vậy, Pháp chỉ là nhà hảo tâm xếp thứ 15 về trợ giúp quân sự cho Kiev. Báo cáo mang tên Ukraine Support Tracker do Viện Kiel, một trung tâm nghiên cứu của Đức, công bố gần đây, cho thấy đến cuối tháng 10/2023, nguồn hậu thuẫn của Paris được ước tính ở mức 500 triệu euro, thua xa Mỹ (43, 9 tỷ), Đức (17,1 tỷ), Vương Quốc Anh (6,6 tỷ), Na Uy (3,6 tỷ) và Đan Mạch (3,5 tỷ). Pháp thậm chí còn bị Slovakia, Cộng hòa Séc và Litva qua mặt trong bảng tổng sắp.
Phương pháp thống kê này của Viện Kiel đã bị Pháp phản đối, cho là chỉ tính đến những cam kết đóng góp mà không xét đến thực tế đã giao. Bộ trưởng Quân Lực Pháp, khi trả lời phỏng vấn đài phát thanh France Inter ngày 18/01, chỉ trích bảng xếp hạng này là không đáng tin cậy, khi « trộn lẫn bắp cải và cà rốt », và « chỉ dựa trên các tuyên bố ».
Nhưng Paris cũng chưa bao giờ đưa ra được những con số thay thế khả tín, trang mạng Challenges lưu ý. Một báo cáo do Quốc Hội Pháp công bố hồi tháng 11/2023 đưa ra con số 3,2 tỷ euro viện trợ quân sự dành cho Ukraina, nhưng phương pháp thống kê này cũng có thể gây tranh cãi, nếu không muốn nói là mù mờ.
Bất kể ra sao, nguồn hậu thuẫn này của Pháp rõ ràng là chưa đủ. Báo cáo của các nghị sĩ đánh giá, « việc chuyển qua nền kinh tế chiến tranh, như yêu cầu, đã không diễn ra ». Thượng nghị sĩ Cedric Perrin còn cho rằng cụm từ « kinh tế chiến tranh » mà tổng thống Macron sử dụng là không phù hợp. Trên kênh truyền hình Public Senat, chủ tịch Ủy ban Đối ngoại và Quốc phòng Thượng Viện Pháp giải thích :
« Trong một nền kinh tế chiến tranh giống như trong nền kinh tế mà chúng ta không may đã trải qua sau Đệ Nhị Thế Chiến, ngân sách dành cho quốc phòng chiếm đến 28% của GDP. Tỷ lệ này là 5% trong những năm 1960 và hiện nay gần như chưa tới 2%. Đó là thời kỳ mà người ta trưng dụng vật tư, trưng dụng nhân lực và trưng dụng nhà xưởng.
Hiện chúng ta chưa rơi vào trong tình trạng đó. Một nền kinh tế chiến tranh nghĩa là phải có phương tiện để sản xuất nhanh hơn, sản xuất nhiều hơn. Nước Pháp hiện không trong tình trạng chiến tranh. Do vậy, theo tôi, khi nói chúng ta đang trong nền kinh tế chiến tranh, thì tuyên bố này chỉ mang tính chất truyền thông ! »
Nòng pháo Caesar : Điểm hạn chế của Pháp ?
Liệu Pháp có khả năng tăng thêm mức viện trợ quân sự cho Kiev như thông báo ? Cũng trên đài France Inter, bộ trưởng Quân Lực Sebastien Lecornu nêu rõ chi tiết cách thức chi viện 78 khẩu đại bác Caesar cho Ukraina trong khuôn khổ « liên minh pháo binh »: Sáu khẩu đầu tiên do Ukraina chi trả sẽ được giao trong những tuần sắp tới, 12 khẩu tiếp theo là do Pháp tài trợ với tổng trị giá là 50 triệu euro và 60 chiếc còn lại sẽ do các nước khác đóng góp. Vậy những nước nào sẽ gánh vác phần còn lại đó ? Đây vẫn là một câu hỏi lớn.
Giới quan sát cũng tỏ ra hoài nghi về khả năng thực hiện cam kết của Paris. Lãnh đạo bộ quốc phòng Pháp khẳng định, hãng Nexter có thể sản xuất 72 khẩu đại bác đó trong năm nay cho Ukraina. Theo phóng sự của kênh truyền hình quốc tế Pháp France 24, lãnh đạo Nexter cho biết hiện tại hãng này có thể cung cấp 6 khẩu đại bác mỗi tháng. Con số này sẽ tăng lên thành 8 trong năm 2024.
Mức tăng đó có được là nhờ vào những khoản đầu tư được dự trù trước khi có xung đột. Ông Stephane Ferandon, phụ trách bộ phận sản xuất nòng pháo của hãng ở vùng Bourges, cho biết, trong tương lai, những cỗ máy mới của Nexter còn có thể sản xuất các loại nòng đại bác dài 12 mét, calip 62 thay vì nòng 155 ly, dài 9 mét, calip 52 như hiện nay.
Tuy nhiên, trên làn sóng Sud Radio, Jean-Baptiste Noé tổng biên tập trang mạng Conflit, chuyên về địa chính trị, lưu ý thêm một chi tiết :
« Rắc rối của đại bác Caesar là ở nòng pháo. Loại đại bác này phải được sử dụng tương đối ít, nhưng trong cuộc chiến tranh này, chúng được sử dụng quá mức, điều đó có nghĩa là nòng pháo bị hao mòn rất nhanh. Vì vậy, chúng phải được thay thường xuyên, tốn nhiều tiền hơn, kim loại sử dụng để sản xuất cũng hiếm. Thế nên, rủi ro ở đây là dù có đại bác Caesar, nhưng nếu bị sử dụng quá nhiều, chúng sẽ trở nên không sử dụng được. »
Pháo 155 ly : Cung không đáp ứng đủ cầu
Bên cạnh việc cung cấp đại bác, Pháp cũng thông báo chi viện đạn 155 ly cho Ukraina. Trang mạng Challenges ngày 18/01/2024 nhắc lại một báo cáo khác của Thượng Viện công bố hồi tháng 11/2023 do hai thượng nghị sĩ Hugues Saury và Hélène Conway-Mouret đồng ký tên, từng nhận định trong năm 2024, việc cung cấp đạn pháo 155 ly do Pháp sản xuất phải đạt mức 20 ngàn quả.
Nhưng sản lượng này chỉ đủ để Ukraina tiêu thụ trong vòng từ 3-4 ngày chiến sự. Trong báo cáo mới nhất của bốn thượng nghị sĩ Pháp, mỗi ngày Ukraina sử dụng từ 5-8 ngàn quả đạn pháo, phía Nga là từ 10-15 ngàn. Ngay cả khi Pháp có tăng sản lượng từ 2.000 quả đạn pháo lên thành 3.000 mỗi ngày như thông báo của bộ trưởng Quân Lực Pháp, thì con số này chỉ tương ứng với hai ngày chiến sự bên phía Nga.
Giải thích với kênh truyền hình France 24, Anthony Cesbron, phó giám đốc nhà máy Forges de Tarbes, xưởng vũ khí duy nhất nằm ở tây nam nước Pháp có thể sản xuất loại pháo đại bác 155 ly, cho biết hãng có kế hoạch tăng gấp ba sản lượng, đi từ 55 ngàn quả pháo trong năm 2024 lên thành 160 ngàn từ đây đến năm 2026. Nhưng điều này đòi hỏi phải gia tăng nhân sự.
« Một trong những khó khăn của chúng tôi là tuyển dụng được những người có trình độ. Chúng tôi không tìm được người và hầu hết các vị trí ở hãng chúng tôi, quá trình đào tạo kéo dài từ sáu tháng đến một năm. Điều này có nghĩa là chúng tôi buộc phải có kế hoạch trước. »
Xung đột ở Ukraina đã làm lộ rõ những điểm yếu của phương Tây về sản xuất vũ khí đạn dược. Chiến tranh lạnh kết thúc, bức tường Berlin sụp đổ, cỗ máy công nghiệp quốc phòng của Pháp giảm mạnh nhịp độ hoạt động. Giờ mục tiêu đặt ra là nâng cao trở lại nguồn dự trữ và khuyến khích các ngành công nghiệp quốc phòng sản xuất nhiều hơn, nhanh hơn.
Nhưng mong mỏi này không thể thực hiện trong một sớm một chiều, theo như giải thích của Renaud Bellais, đồng giám đốc Đài Quan sát Quốc phòng ORION với kênh truyền hình France 24 :
« Chúng ta gần với sản xuất thủ công hơn là đại trà. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà ở họ có cảm giác rằng tất cả mọi thứ đều có thể là tức thì. Người ta có thể được cung cấp hàng hóa một cách cực kỳ nhanh chóng. Thế giới kỹ thuật số là một thế giới của tốc độ, nhưng họ cũng chợt nhận ra rằng trong thế giới cụ thể, việc chế tạo một cỗ máy đòi hỏi nhiều thời gian. Bất kỳ hoạt động công nghiệp nào đều phải được chuẩn bị, ngay cả khi chúng ta tăng mức sản xuất xe ô tô trong lĩnh vực dân dụng hay nơi khác thì cũng phải lên kế hoạch cho nhiều năm. »
Điểm yếu nhưng cũng là thế mạnh của Pháp
Trước nhu cầu lớn từ phía Ukraina, trước sự cấp thiết tái lập lại kho dự trữ của quân đội Pháp và trước những hạn chế của ngành công nghiệp quốc phòng hiện nay, báo cáo của các thượng nghị sĩ đề nghị Pháp « tăng tốc sản xuất vũ khí tại Ukraina cùng với doanh nghiệp Pháp », như trường hợp nòng đại bác Caesar chẳng hạn.
Nhu cầu của Ukraina là rất rõ ràng : Từ đại bác Caesar, cùng với đạn pháo và các loại nòng pháo thay thế, pháo 155 ly, tên lửa hành trình Scalp, vốn đã chứng tỏ tính hiệu quả khi phá hủy tầu ngầm, tầu chiến và tầu đổ bộ của Nga tại bán đảo Crimée, cho đến các loại bom dẫn đường AASM Hammer, hệ thống phòng không SAMP/T và Crotale và tên lửa tầm ngắn Mistral…
Tuy nhiên, các báo cáo viên lại không đề cập đến tiêm kích Mirage 2000 của Pháp. Loại chiến đấu cơ, phiên bản Mirage 2000D (dành để yểm trợ tấn công trên bộ), do hãng Dassault sản xuất, đã được lãnh đạo không quân Ukraina Mykola Oleshchuk ngày 14/01 nhắc đến trên mạng Telegram. « Nếu có thể, năng lực oanh tạc cơ Su-24M cũng nên được tăng cường bằng Mirage 2000D và máy bay tấn công Su-25 bằng chiếc A-10 Thunderbolt II (Thần sấm II của Mỹ). »
Cuộc đua sản xuất vũ khí đã được khởi động. Mục tiêu là làm sao đáp ứng cùng lúc nhu cầu to lớn của Ukraina và nhu cầu thiết yếu cho quân đội Pháp. Nếu chiến tranh Ukraina đã phơi bày những hạn chế công nghiệp quốc phòng phương Tây nói chung và Pháp nói riêng, thì điều an ủi là, cuộc xung đột này khẳng định rõ tầm nhìn đúng đắn của Pháp từ nhiều thập niên qua : Quyết tâm duy trì thế mạnh công nghiệp bất chấp chiến tranh lạnh kết thúc.
Điều này giải thích vì sao Pháp vẫn có thể đáp ứng mức cầu tăng, dù là hạn chế, theo như nhận xét của Renaud Bellais với France 24 : « Tại Pháp, chúng ta vẫn có khái niệm về tự chủ chiến lược. Quả thật, chúng ta cố gắng có toàn bộ mọi lĩnh vực. Vì vậy, chúng ta đã chọn giữ lại hầu hết các năng lực bởi vì chúng ta muốn có thể tự mình phát triển chúng, sản xuất chúng tại Pháp và đôi khi với các đối tác. Và vì vậy, chúng ta đã chọn giảm toàn bộ các hoạt động sản xuất xuống mức tối thiểu thay vì hy sinh các ngành sản xuất này. »
(Theo Challenges, France 24, Sud Radio, France Inter)
Thu, 25 Jan 2024 - 84 - Chiến tranh Ukraina : Putin và chiến lược « làm kiệt quệ » đối phương
Trong những ngày cuối năm 2023 và đầu năm 2024, Nga ồ ạt tấn công nhiều thành phố lớn của Ukraina bằng tên lửa và drone với quy mô lớn chưa từng có. Giới chuyên gia cho rằng Nga thay đổi chiến thuật nhằm « phá mật mã » phòng không và làm kiệt quệ nguồn dự trữ đạn dược của Ukraina.
Ukraina đã có một khởi đầu khó khăn cho năm 2024. Đất nước kiệt quệ sau hai năm chiến đấu, nhiệt độ ngoài trời xuống -15°C , các cuộc phản công chiếm lại những vùng lãnh thổ bị chiếm đóng gần như bị đóng băng, chỉ trong vòng hơn một tuần đầu năm mới, Ukraina liên tiếp hứng chịu những đợt oanh kích có quy mô lớn.
Chỉ riêng trong giai đoạn từ ngày 29/12/2023 đến 02/01/2024, Nga dùng hơn 500 drone và tên lửa bắn phá các thành phố lớn của Ukraina. Tuy nhiên, theo các quan chức và nhà phân tích quân sự, quy mô và mức độ phức tạp của các cuộc không kích vừa qua của Nga có trật tự hơn so với các cuộc tấn công vào mùa đông năm 2023.
Chiến lược tiêu hao
Thay vì nhắm vào thường dân và các cơ sở năng lượng, các mục tiêu chính lần này dường như là ngành công nghiệp quốc phòng của Ukraina như vụ Artem, nhà máy vũ khí ở Kiev bị bắn phá hư hại. Bộ Quốc Phòng Ukraina cho biết thêm, trong loạt tấn công ngày 13/01, Nga đã dùng đến 40 drone và tên lửa, bao gồm cả tên lửa đạn đạo nhằm vào khu « tổ hợp công nghiệp – quân sự của Ukraina ».
Các cuộc tấn công đã được lên kế hoạch cẩn thận, với các đợt drone và tên lửa được thiết kế xen kẽ nhằm áp đảo hệ thống phòng không của Ukraina. Tướng Dominique Trinquand, cựu trưởng đoàn phái bộ quân sự Pháp tại Liên Hiệp Quốc, trong một chương trình truyền hình của báo Le Figaro phân tích :
« Trên thực tế, đây là những cuộc tấn công làm bão hòa, tức là họ bắn đi nhiều drone và tên lửa nhắm vào các mục tiêu sao cho, một mặt, một số tên lửa có thể vượt qua, hệ thống phòng không của Ukraina đã không thể nào bắn chặn được, và mặt khác, làm tiêu hao một lượng lớn tên lửa bắn chặn của Ukraina đến mức làm cạn kiệt chúng. Mục tiêu chính ở đây là làm cạn nguồn đạn dược dự trữ của Ukraina. »
Về điểm này, cựu đại tá thủy quân lục chiến Pháp Michel Goya, trên đài phát thanh France Culture, giải thích thêm rằng « nếu có 100 chiếc tên lửa đạn đạo hay hành trình bắn vào Ukraina, thì ta cần khoảng 2 tên lửa phòng không để đánh chặn mỗi tên lửa, như vậy tổng cộng phải có khoảng 200 tên lửa. Đây cũng chính là số tên lửa mà Anh Quốc thông báo chi viện. Nhưng 200 tên lửa này chỉ đủ cho một ngày chiến đấu. Đây thật sự là một thách thức lớn. »
Patriot vs Tên lửa đạn đạo của Nga
Điểm đáng chú ý là đợt tấn công ngày 08/01, Ukraina chỉ bắn chặn được 18 trong số 51 tên lửa do Nga bắn đi so với tỷ lệ bắn chặn thành công thông thường là 80%. Theo nhận định từ nhiều nhà phân tích quân sự được Financial Times trích dẫn, dường như Nga đang tìm cách phá mã phòng không của Ukraina và đã vạch ra được những điểm yếu của hệ thống phòng không của nước này sau nhiều ngày oanh kích.
Chuyên gia Dara Massicot, thành viên cao cấp thuộc trung tâm cố vấn Carnegie Endowment tại Washington cảnh báo « nếu Nga thành công và Ukraina không thể bảo vệ không phận của mình, thì đó sẽ là một vấn đề lớn, mở ra cơ hội cho Nga điều máy bay ném bom hạng nặng đến Ukraina. »
Để phá vỡ hàng phòng thủ Ukraina, quân Nga thường phóng drone bay chậm, sau đó là tên lửa hành trình cận âm bay thấp và cuối cùng là tên lửa đạn đạo được phóng thẳng đến mục tiêu với tốc độ nhanh gấp nhiều lần vận tốc âm thanh khiến chúng khó bị bắn hạ. Giới quan sát cho rằng, Nga dường như đã sử dụng 6 tên lửa đạn đạo Iskander và 8 tên lửa đạn đạo Kinjal, loại tên lửa nguy hiểm nhất mà tổng thống Nga Vladimir Putin không ngớt lời ca ngợi là « siêu vũ khí ».
Theo phân tích của Viện Nghiên Cứu Chiến Tranh ISW, một tổ chức tư vấn có trụ sở ở Washington, được trang mạng Al Jazeeara của Qatar trích dẫn, tên lửa đạn đạo tầm ngắn có vẻ có hiệu quả hơn trong việc xuyên thủng hoặc tránh hệ thống phòng không của Ukraina. « Lực lượng phòng không Ukraina đã đánh chặn 149 trong số 166 tên lửa hành trình của Nga trong các cuộc tấn công tăng cường kể từ ngày 29/12/2023, nhưng họ chỉ bắn chặn được một số tên lửa đạn đạo mà Nga đã bắn vào Ukraina trong cùng thời gian ».
Quả thật, chiến lược « kết hợp vũ khí siêu thanh và cận âm» của Nga đã khiến cho hệ thống phòng thủ của Ukraina, được mệnh danh là « Franken SAM » và được thiết kế dựa trên sự kết hợp giữa các hệ thống phòng không và tên lửa địa đối không phải vật lộn đối phó. Phát ngôn viên lực lượng không quân Ukraina, đại tá Yuriy Ignat cho biết chỉ có hệ thống Patriot do Mỹ sản xuất mới có thể bắn hạ được tên lửa đạn đạo.
Ukraina chỉ có vài khẩu đội, trong khi nguồn cung lại đắt đỏ và tương đối ít do phải chia sẻ nhu cầu với Israel. Đây thật sự là một thách thức lớn cho Ukraina và cả phương Tây, theo như lưu ý từ ông Ian Lesser, thuộc Quỹ Marshall của Đức, trên kênh truyền hình Euronews :
« Người ta e sợ là Ukraina thiếu nguồn đạn dược thiết yếu, nhưng cần phải có thời gian để tích trữ lượng nguồn vũ khí này. Thậm chí còn có một vấn đề khác nghiêm trọng hơn đối với loại vũ khí này, nhất là trên phương diện phòng không. Chúng được sử dụng với một tốc độ đến mức làm cạn kiệt cả nguồn dự trữ của phương Tây. Trong khi các tên lửa Patriot có giá rất đắt, từ hai đến bốn triệu đô la mỗi chiếc. »
Sự việc cũng làm lộ ra những khó khăn của phương Tây hiện tại. Châu Âu không thể sản xuất một triệu đạn pháo như họ đã cam kết với quân đội Ukraina. Từ đây đến năm 2024, châu Âu chỉ sẽ giao được tổng cộng 300 ngàn đạn dược. Trong khi đó tại Mỹ, phe Cộng Hòa ngăn chặn khoản viện trợ bổ sung hơn 61 tỷ đô la mà tổng thống Joe Biden đề xuất.
Đổi lại ở phía Nga, các nhà máy sản xuất drone và tên lửa đã hoạt động hết công suất và sản xuất nhiều hơn bất chấp các lệnh cấm vận của phương Tây. Theo chuyên gia về Nga Tatiana Kastouéva-Jean, Viện Quan hệ Quốc tế Pháp, trên đài France Culture, cỗ máy chiến tranh Nga vận hành tốt còn nhờ vào việc « họ không bị thiếu hụt công nhân tay nghề như các đối thủ. Người dân Nga tình nguyện tham gia vì mức lương trong lĩnh vực này đã được tăng lên và bởi vì phần lớn các doanh nghiệp này cũng đề nghị tạm hoãn đi quân dịch, không phải ra thẳng chiến trường. »
Iran, Bắc Triều Tiên : Nguồn chi viện dồi dào cho Nga
Với một nền kinh tế chiến tranh và ngân sách quốc phòng tăng thêm 70% cho năm 2024, Nga hiện sản xuất hơn 100 tên lửa tầm xa mỗi tháng, so với khoảng 40 tên lửa khi bắt đầu cuộc xâm lược và khoảng 300 chiếc drone. Tuy nhiên, theo ước tính của ISW, Nga chỉ có thể sản xuất khoảng 42 tên lửa Iskander và 4 tên lửa Kinjal mỗi tháng. Lượng sản xuất đạn pháo của Nga cũng không đủ bù đắp cho nhu cầu chiến trường. Nga muốn sản xuất ba triệu đạn pháo mỗi năm, nhưng lại tiêu thụ đến khoảng một triệu đạn pháo mỗi tháng.
Sự thiếu hụt này dường như Nga đã tìm được nguồn cung để bù đắp. John Kirby, phát ngôn viên Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, trong cuộc họp báo tại Nhà Trắng hôm 04/01 cảnh báo khả năng Nga sử dụng tên lửa đạn đạo của Bắc Triều Tiên. Theo ước tính, lượng dự trữ tên lửa KN-23 của Bình Nhưỡng có thể lên tới 100 chiếc, và phần lớn trong số này có thể được chuyển giao cho Nga với mức giá phù hợp.
« Chúng tôi dự đoán Nga sẽ sử dụng thêm tên lửa của Bắc Triều Tiên để bắn vào các cơ sở hạ tầng dân sự của Ukraina và giết hại thường dân Ukraina vô tội. Tên lửa đạn đạo của Triều Tiên có tầm bắn xấp xỉ 900 km, tức là khoảng 550 dặm. Đây là bước leo thang đáng kể và đáng lo ngại về sự hỗ trợ của Bắc Triều Tiên dành cho Nga ».
Phát ngôn viên Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ còn bày tỏ lo ngại về việc Nga đang« tích cực » đàm phán mua tên lửa đạn đạo tầm ngắn từ Iran. « Tại thời điểm này, chúng tôi nghĩ rằng Iran vẫn chưa chuyển giao tên lửa đạn đạo tầm ngắn cho Nga. Tuy nhiên, Hoa Kỳ e ngại rằng các cuộc đàm phán của Nga về việc mua tên lửa đạn đạo tầm ngắn đang có những tiến triển tích cực ».
Tóm lại, Nga đang sử dụng « bất cứ điều gì có thể để làm hao mòn Ukraina ». Nhưng nhiều nhà phân tích quân sự cho rằng tình hình của Ukraina không đến nỗi vô vọng. Nhật Bản gần đây cho biết sẽ nới lỏng các hạn chế xuất khẩu vũ khí để tên lửa Patriot do Nhật sản xuất có thể được vận chuyển sang Mỹ, như vậy Washington gởi thêm kho vũ khí của mình đến Ukraina.
Nhưng có lẽ mục tiêu sau cùng của những cuộc tấn công này là nhằm buộc Ukraina ngồi vào bàn đàm phán theo những điều kiện có lợi cho Nga, theo đó Ukraina có lẽ sẽ phải nhượng bộ khoảng 20% lãnh thổ đã bị chiếm đóng cho Nga.
Đương nhiên, với kết quả này, Nga đã thất bại trong việc lôi kéo Ukraina trở về vùng ảnh hưởng của mình, ngược lại, Kiev sẽ còn bám chặt hơn vào phe dân chủ phương Tây. Nhưng đổi lại, Hoa Kỳ và châu Âu sẽ bị mất uy tín, vì không có khả năng bảo vệ nền dân chủ.
Một bên thua là Nga chống lại hai kẻ đại bại là Ukraina và Phương Tây. Đối với tổng thống Nga, đây mới thực sự là một thắng lợi lớn. Một cuộc cá cược lớn « được ăn cả, ngã về không » của ông Putin, Le Point kết luận !
Fri, 19 Jan 2024 - 83 - Ấn Độ - Thái Bình Dương : Những thách thức quốc phòng cho Trung Quốc
Thế giới những năm gần đây nói nhiều về khái niệm Ấn Độ - Thái Bình Dương, nhưng thuật ngữ này dường như chưa bao giờ được Trung Quốc đề cập đến. Tại một khu vực từ lâu do Mỹ thống trị, đâu là vị thế của Trung Quốc ? Liệu Bắc Kinh có một tầm nhìn và một chiến lược đặc biệt cho vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương ?
Đối với nhiều nhà quan sát đây là một điểm thú vị. Nghiên cứu các phiên bản Sách Trắng Quốc phòng của các năm 2017 và 2019, người ta nhận thấy không một lần nào Bắc Kinh đề cập đến « Ấn Độ - Thái Bình Dương »1. Không những thế, Bắc Kinh thường xuyên chỉ trích mạnh mẽ khái niệm này, cho rằng đây là một hình thức phương Tây, đi đầu là Mỹ, vây hãm Trung Quốc.
Ấn Độ - Thái Bình Dương…
Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Bắc Kinh không có chính sách Ấn Độ – Thái Bình Dương. Theo Tanguy Struye de Swielande2, giáo sư ngành Quan hệ Quốc tế, trường đại học Công giáo Louvain (Bỉ), trên thực tế, Trung Quốc đã dùng lại lô-gic của khái niệm này qua việc xây dựng một tầm nhìn chiến lược, kết nối hai vùng Châu Á – Thái Bình Dương, khu vực ưu tiên, vùng ảnh hưởng tự nhiên và Ấn Độ Dương, khu vực Trung Quốc tìm cách gia tăng sự hiện diện như tại Maldives, Seychelles, Sri Lanka.
Vùng châu Á – Thái Bình Dương, xuất phát từ Hoàng Hải, băng qua biển Hoa Đông và eo biển Đài Loan, để rồi đi xuống Biển Đông, là khu vực mà Bắc Kinh có yêu sách chủ quyền nhiều nhất. Từ góc nhìn quân sự, khu vực này tạo thành tuyến phòng thủ đầu tiên. Chính sách này của Trung Quốc được thể hiện rõ qua việc xây dựng và quân sự hóa nhiều đảo nhân tạo hay tự nhiên (như tại quần đảo Trường Sa, bãi cạn Scarborough, Hoàng Sa).
Trong một mục tiêu dài hạn đến năm 2049, từ tuyến phòng thủ đầu tiên này, Trung Quốc có thể triển khai đến chuỗi đảo thứ hai (quần đảo Ogasawara, Saipan và Guam) và thậm chí có thể thiết lập tuyến phòng thủ thứ ba gần Hawai. Trong khuôn khổ tham vọng này, Bắc Kinh phát triển một chiến lược chống xâm nhập và vô hiệu hóa các căn cứ quân sự tiền tuyến của Mỹ nhằm ngăn chặn mọi ý đồ triển khai sức mạnh của quân đội Mỹ.
… Và chiếc cầu nối Đông Nam Á
Liên quan đến Ấn Độ Dương, ở Trung Quốc, những người theo trường phái Alfred Mahan – một sĩ quan hải quân, nhà sử học và chiến lược gia hải quân người Mỹ thế kỷ XIX – tỏ lập trường rất rõ ràng : « Ai kiểm soát được Ấn Độ Dương sẽ làm chủ được châu Á. Ấn Độ Dương là lối thông ra bảy vùng biển trên thế giới. Vận mệnh của thế giới trong thế kỷ XXI sẽ do Ấn Độ Dương định đoạt ».
Thế nên, đối với Trung Quốc, việc hiện diện tại Ấn Độ Dương trở nên thiết yếu, do đó là những tuyến hàng hải đến châu Phi và Trung Đông để nhập khẩu nguyên nhiên liệu, và đi đến châu Âu để xuất khẩu hàng gia công. Hệ quả là Trung Quốc tăng cường hiện diện quân sự, như mở căn cứ quân sự ở Djibouti, hay hiện diện quân sự ở cảng Gwadar, Pakistan.
Trong chiến lược này, khu vực Đông Nam Á giữ vai trò địa chính trị quan trọng đối với Trung Quốc. Điều này được thể hiện rõ qua việc phát triển chính sách Những Con Đường Tơ Lụa Mới của Bắc Kinh. Kiểm soát được Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ giúp Trung Quốc dễ dàng tiến ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Một điểm khác cho thấy tầm quan trọng của khu vực là eo biển Malacca. Nút thắt « yết hầu » này có thể đẩy Trung Quốc rơi vào thế yếu nếu hạm đội Mỹ phong tỏa vùng biển chặn đường tiếp nhiên liệu cho Bắc Kinh, trong trường hợp xảy ra xung đột với Washington.
Để giảm thiểu nguy cơ này, Trung Quốc phải tăng cường hiện diện trong khu vực và nhắm đến việc hộ tống các tầu hàng. Tuy nhiên, điều này có nguy cơ dẫn đến phản ứng quân sự từ một số nước Đông Nam Á, xem chính sách này của Bắc Kinh như là một mối đe dọa cho an ninh quốc gia.
Khủng hoảng eo biển Đài Loan 1995-1996 : Cột mốc!
Nhưng ngoài việc tìm cách mở rộng ảnh hưởng, bảo đảm an toàn giao thương hàng hải, mục tiêu sau cùng của Trung Quốc là làm thế nào « xua đuổi » được Hoa Kỳ ra khỏi vùng ảnh hưởng trực tiếp để có thể áp đặt các ý muốn của mình tại khu vực.
Trả lời phỏng vấn tạp chí DSI, số đặc biệt tháng 10-11/2023, nhà địa chính trị Valérie Niquet, chuyên gia về Trung Quốc và Đông Nam Á, từng nhận định đây sẽ là một thắng lợi cho Trung Quốc nếu nước này « thuyết phục được các quốc gia trong khu vực rằng Hoa Kỳ không có chỗ trong vùng, và làm cho Mỹ nhận thấy rằng việc quyết định phiêu lưu xung đột với Trung Quốc sẽ trả một cái giá rất đắt. »
Do đó, mọi nỗ lực của Trung Quốc là tập trung cho cuộc chiến thông tin, cuộc chiến gây ảnh hưởng và nhất là phát triển một đội quân hùng mạnh nhất thế giới từ đây đến năm 2049, theo như mục tiêu mà chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đề ra. Chuyên gia quân sự Mathieu Duchatel3, giám đốc chương trình châu Á, Viện Montaigne, cho rằng, để hiểu rõ những tham vọng quân sự này của Trung Quốc, cần phải lồng sự việc trong vấn đề Đài Loan.
Cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ ba năm 1995-1996 là động lực thúc đẩy chương trình hiện đại hóa Quân Đội Giải phóng Nhân dân (PLA) trong nhiều lĩnh vực. Mục tiêu là nhằm có được khả năng đánh gục Đài Loan bằng vũ lực, đồng thời có thể ngăn chặn Mỹ can thiệp, tiếp cận các chuỗi đảo đầu tiên.
Trong một kịch bản tốt nhất, khả năng chống xâm nhập của Bắc Kinh đủ ngăn cản Hoa Kỳ can thiệp. Nhưng trong kịch bản tồi tệ, đối đầu trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc có thể xảy ra. Do vậy, Tập Cận Bình nhân kỳ đại hội đảng lần thứ 19 đã tuyên bố rằng Trung Quốc phải có một « đội quân tầm cỡ thế giới từ đây đến năm 2050 ». Điều đó cũng đồng nghĩa với việc Trung Quốc phải có một quân đội chiến lược « ngang vai, ngang vế » với Hoa Kỳ.
Năm 2023, Trung Quốc dành đến 225 tỷ đô la cho quốc phòng, tăng hơn 7%, một mức tăng cao nhất tính từ năm 2019. Đương nhiên, Hoa Kỳ vẫn là cường quốc quân sự hàng đầu thế giới với mức ngân sách quốc phòng hàng năm dành ra là gần 800 tỷ đô la, chiếm đến 39% tổng chi tiêu quân sự toàn cầu.
Lột xác !
Nhưng từ năm 2010, Trung Quốc đã có mức ngân sách quốc phòng đứng hàng thứ hai trên thế giới. Theo nhà địa chính trị Fabrice Ravel4, điều thật sự thú vị là « từ 26 năm qua, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc tăng đều đặn. Đây là điều không thể tưởng. Chưa có một nước nào trên thế giới có một sự tăng trưởng trong một quãng thời gian dài như thế. Nhất là mức tăng này chiếm đến gần 500% ngân sách. Đây thật sự là điều đáng quan tâm. »
Trong quá trình hiện đại hóa quân đội, Trung Quốc dành ưu tiên cho hai thành tố chính. Thứ nhất là lực lượng hải quân. Từ một lực lượng bảo vệ bờ biển, phòng thủ, hải quân Trung Quốc biến thành một lực lượng hải dương có thể triển khai xa bờ và làm chủ nhiều loại tầu chiến tân tiến, mang tính biểu tượng cao. Chuyên gia Fabrice Ravel nhận định tiếp :
« Lần đầu tiên hải quân Hoa Kỳ cho rằng Trung Quốc đang qua mặt Mỹ về số lượng. Họ ước tính rằng Trung Quốc có hơn 360 tầu chiến so với con số 297 của hải quân Mỹ. Đáng chú ý hơn nữa là khả năng sản xuất và lắp ráp các loại tầu chiến lớn có tính biểu tượng cao. Đầu tiên là tầu ngầm hạt nhân.
Người ta ước tính Trung Quốc có khả năng cho xuất xưởng một chiếc mỗi 15 tháng. Nếu tiếp tục lắp ráp theo nhịp độ này, từ đây đến năm 2030, Trung Quốc sẽ có 13 chiếc tầu ngầm hạt nhân. Điều đó có nghĩa là Bắc Kinh sẽ có nhiều tầu ngầm hạt nhân trong vùng hơn Mỹ.
Thứ đến là hàng không mẫu hạm. Trung Quốc đã mua một chiếc từ Ukraina năm 1998 và đã cho cải tạo, trang bị lại. Tiếp đến Trung Quốc cho hạ thủy hai chiếc khác, trong đó chiếc Sơn Đông đã chính thức đi vào hoạt động. Cùng lúc Bắc Kinh gia tăng số hàng không mẫu hạm, trang bị thêm chiến đấu cơ (…)
Điều thú vị là Trung Quốc dành đến 5,5 tỷ đô la cho việc thiết kế và lắp ráp hàng không mẫu hạm. Trong triển vọng này, Trung Quốc sẽ có thêm bốn chiếc trong thời gian sắp tới. Giới chuyên gia Canada cho rằng mục tiêu của Trung Quốc là có khoảng một chục chiếc hàng không mẫu hạm. »
Lĩnh vực thứ hai được Trung Quốc ưu tiên đầu tư nhiều là hạt nhân. Trung Quốc xây dựng 250 xi-lô để cất trữ tên lửa đạn đạo liên lục địa. Theo ước tính, lực lượng hạt nhân Trung Quốc có khoảng từ 300-400 đầu đạn nguyên tử. Con số này có thể sẽ tăng lên vào khoảng 1000 trong thời gian sắp tới.
Emmanuel Veron, chuyên gia về Trung Quốc đương đại, trên đài France Culture ngày 29/12/2023, giải thích thêm rằng cùng với Nga và Mỹ, Trung Quốc là quốc gia duy nhất sở hữu bộ ba hạt nhân chiến thuật.
« Thứ nhất là bộ phận không quân với các loại máy bay ném bom chiến lược, vốn đã trải qua quá trình hiện đại hóa rất đáng kể, từ 15 - 20 năm qua với các chương trình trang bị vũ khí, có khả năng mang bom hạt nhân. Đặc biệt là loại máy bay ném bom chiến lược H6 nổi tiếng có tầm hoạt động xa, từ Biển Đông và vượt ra ngoài Đài Loan. Đây thật sự là một vấn đề chiến thuật, đòi hỏi sự kết hợp các chiến lược ở Châu Á Thái Bình Dương với thành phần này.
Thứ hai là thành phần trên bộ thông qua các xi-lô nằm ở vùng phía Tây rộng lớn của Trung Quốc, rồi ở nhiều địa điểm khác được “xếp diện bí mật”.
Cuối cùng, có lẽ phức tạp hơn, khó khăn hơn, là răn đe hạt nhân trên biển, tức là bằng tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo hạt nhân, tương đương với SSBN của Pháp đóng tại căn cứ Long Island ở Brest. Thành phần này phức tạp hơn, tinh vi hơn, bởi vì nó đòi hỏi cả khả năng chuyên chở, khả năng tàng hình của tàu ngầm và do vậy, đòi hỏi các công nghệ đặc biệt tiên tiến, cũng như khả năng trang bị một tên lửa trên tàu có hiệu quả, độ chính xác cao và có tất cả sự tinh tế, của một tên lửa hạt nhân có thể mang nhiều đầu đạn, v.v. Đây là một trong những vật thể phức tạp nhất trong hệ thống vũ khí.
Ngoài ra, Trung Quốc đang nghiên cứu sâu rộng vấn đề này cùng với các hệ thống tàu ngầm AIP động cơ đẩy kỵ khí khác, vốn dĩ nằm trong mục tiêu chiến lược về Đài Loan và ở Thái Bình Dương. »
Những hạn chế
Một điểm khác cũng gây ngạc nhiên cho giới quan sát : Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới có một nền công nghiệp vũ khí có thể sản xuất tất cả các loại hệ thống vũ khí cùng một lúc. Rõ ràng Bắc Kinh đang trong lô-gic tăng cường năng lực quân sự trong tất cả các lĩnh vực. Mục tiêu là nhằm có được thế ưu tuyệt đối ngay trong lòng chuỗi đảo phòng thủ đầu tiên. Nhưng đồng thời Trung Quốc cũng phát triển các khả năng triển khai bên ngoài nhằm bảo vệ các lợi ích ngoài vùng Đông Á.
Nhìn chung, Bắc Kinh đã thiết lập một số điểm « thiện chiến », có thể gây khó khăn cho Mỹ trong trường hợp xảy ra xung đột. Mathieu Duchatel,dẫn ví dụ năng lực chống tầu chiến tầm xa của Bắc Kinh. Đây thực sự là một mối đe dọa nghiêm trọng cho các chiến dịch quân sự của hải quân Mỹ trong vùng. Ngoài ra, nếu nhìn trên một không gian rộng, toàn vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương, với sự hợp tác của các đồng minh và đối tác khu vực, hiện tại Hoa Kỳ đã xây dựng được một không gian thống lĩnh đối phó với các năng lực quân sự của Trung Quốc.
Dù vậy, giới chuyên gia cũng có chung một nhận định: một trong số các điểm yếu quan trọng của quân đội Trung Quốc hiện nay là thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Cuộc chiến sau cùng Trung Quốc tham gia là cuộc chiến biên giới Việt Nam năm 1979. Giới quan sát đặt nhiều nghi vấn về khả năng phối hợp tác chiến liên quân của Trung Quốc. Và nhất là việc đảng Cộng sản Trung Quốc tập trung kiểm soát chính trị có thể là một rào cản lớn gây trở ngại cho quá trình ra quyết định, do ai cũng sợ phạm phải sai lầm và gánh lấy nhiều rủi ro !
---------- ********** ----------
Ghi chú :
1. Khái niệm « Ấn Độ - Thái Bình Dương » được nhà địa chính trị học người Đức Haushofer dùng lần đầu tiên vào năm 1920. Nhưng thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe là người đầu tiên dùng thuật ngữ này vào mục đích chính trị năm 2007 trong khuôn khổ Đối thoại An ninh Bốn bên (Nhật Bản, Hoa Kỳ, Úc và Ấn Độ).
2. Tạp chí Les Grands Dossiers de Diplomatie n°53, « La démographie : un enjeu géopolitique majeur », số ra tháng 6-7/2019.
3. Tạp chí Les Grands Dossiers de Diplomatie n°73, « Géopolitique de la Chine », số ra tháng 4-5/2023.
4. L'Armée chinoise, quels objectifs ? – ESCE – International Business School, ngày 18/10/2023.
Thu, 11 Jan 2024 - 82 - Nếu Trump tái đắc cử: Những hệ quả đối với xung đột ở Gaza và Ukraina
Bầu cử tổng thống Mỹ chưa diễn ra, đảng Cộng Hòa vẫn chưa có ứng viên chính thức, nhưng chiếc bóng của Donald Trump đã phủ lên nhiều hồ sơ quốc tế lớn. Tại châu Á, các nước đồng minh của Mỹ phập phồng lo sợ Donald Trump trở lại cầm quyền. Ngược lại, thủ tướng Israel Benyamin Netanyahu và tổng thống Nga Vladimir Putin lại đặt cược nhiều vào chiến thắng của nhà tỷ phú địa ốc. Nhưng kịch bản này, nếu xảy ra, sẽ là một thảm họa cho Liên Hiệp Châu Âu.
Năm 2024 vừa mới bắt đầu, nhưng « Donald Trump đã là nhân vật của năm 2024 », trang mạng France Inter ngày 02/01/2024 đã viết như thế ! Hiện tại, Donald Trump chưa phải là ứng viên chính thức, vì vòng bầu cử sơ bộ của đảng Cộng Hòa sẽ chỉ bắt đầu vào ngày 15/01/2024 từ bang Iowa. Nhưng các cuộc thăm dò hiện tại cho thấy ông Trump có nhiều lợi thế không chỉ với các đối thủ trong đảng mà cả với ông Joe Biden.
Theo Bernard Guetta1, nghị sĩ Châu Âu, thuộc nhóm nghị sĩ Renew, và là thành viên Ủy ban Đối ngoại Nghị Viện Châu Âu, viễn cảnh Donald Trump trở lại cầm quyền là một mối đe dọa to lớn.
« Nếu nhân vật này vào được Nhà Trắng, trước hết ông ấy sẽ làm suy yếu hơn nữa nền dân chủ Mỹ. Đừng quên rằng, vào cuối nhiệm kỳ đầu tiên, ông ấy đã tiến hành một cuộc tấn công nhằm vào tòa nhà Quốc Hội. Nhưng ngoài tấn bi kịch chính trị nội bộ của Mỹ, Donald Trump còn muốn phá vỡ Liên minh Quân sự Bắc Đại Tây Dương, phá vỡ Liên Hiệp Châu Âu. Ông ấy muốn đúc kết một thỏa thuận với Vladimir Putin, sau lưng người dân Ukraina, sau lưng chúng ta, 27 nước thành viên Liên Âu. Đó thực sự không phải là một viễn cảnh vui vẻ chút nào ! »
Chiến sự ở Gaza : Cuộc chiến sinh tồn cho thủ tướng Israel ?
Nhưng rủi thay, « trên thế giới, có hai người điên cuồng đang trông đợi Trump trở lại Nhà Trắng : Benjamin Netanyahu ở Israel và Vladimir Putin ở Matxcơva », vị nghị sĩ Châu Âu này bình luận tiếp. Bất chấp con số nạn nhân cao, chưa có dấu hiệu nào cho thấy hai tấn bi kịch, một ở dải Gaza và một tại Ukraina sẽ có ngày chấm dứt. Thủ tướng Israel và tổng thống Nga chỉ được lợi khi kéo dài thêm cuộc xung đột với hy vọng Donald Trump tái đắc cử.
Đối với nhân vật thứ nhất, nghị sĩ châu Âu giải thích : « Đương nhiên là Netanyahu phải tiếp tục cuộc chiến và thậm chí có thể mở rộng cuộc xung đột, bởi vì đối với ông ấy, đây là một sự bảo đảm cho sự sống còn, tôi muốn nói về mặt chính trị ». Kéo dài vô tận cuộc xung đột còn là cách tốt nhất để ông giữ được quyền miễn trừ tư pháp với tư cách người đứng đầu chính phủ.
Thủ tướng Israel hiện đang đối mặt với ba thủ tục tố tụng, được mở ra từ năm 2019 về tội tham nhũng, gian lận và lạm dụng lòng tin, những tội danh có thể dẫn đến án tù. Thế nên, theo nhà sử học Jean-Pierre Filiu2, giáo sư trường đại học Khoa học Chính trị, mục tiêu « xóa sổ » phe Hamas mà ông Netanyahu đề ra, ít có cơ may đạt được, chỉ mang tính khoa trương hơn là quân sự.
Liên Hiệp Châu Âu : Bên thiệt thòi nhiều nhất ?
Nhưng việc theo đuổi chiến sự trên dải Gaza không chỉ giúp Benyamin Netanyahu duy trì quyền lực tại Israel, mà còn nhằm làm suy yếu Joe Biden, vào lúc đảng Dân Chủ chưa bao giờ bị chia rẽ như lúc này. Trên thực tế, thủ tướng Israel luôn mong đợi sự trở lại Nhà Trắng của Donald Trump, vốn đã hậu thuẫn ông vô điều kiện từ năm 2017 đến năm 2020.
Hẳn người ta sẽ chưa quên bản Kế hoạch Hòa bình cho Cận Đông được tổng thống Donald Trump công bố ở Nhà Trắng ngày 28/01/2020 trước sự hiện diện của thủ tướng Israel Netanyahu mà không có đại diện Palestine.
Kế hoạch mang tên « Tầm nhìn » của Donald Trump cho phép Israel sáp nhập các khu định cư Do Thái nằm rải rác trên khắp vùng Cisjordanie vào lãnh thổ Israel. Đổi lại, Tel-Aviv cam kết sẽ ngưng mở rộng các khu định cư. Người Palestine sinh sống trong các khu định cư Do Thái có bốn năm để quyết định đi hay ở lại với Israel. Trái lại, người tị nạn Palestine vẫn không được phép trở về Israel.
Kế hoạch này đã bị chỉ trích là « thiên vị, bất cân xứng » chỉ chiều theo ý muốn của thủ tướng Israel, « một thảm họa thứ hai » theo như đánh giá từ giới truyền thông Pháp vào thời điểm đó ! Do vậy, nếu duy trì được quyền lực từ đây đến tháng 11, thủ tướng Israel Benyamin Netanyahu sẽ bỏ phiếu ủng hộ Donald Trump hơn là một Joe Biden đang nói đến giải pháp « Hai Nhà nước ».
Từ những quan sát trên, nghị sĩ châu Âu Bernard Guetta cảnh báo, nếu xung đột ở Gaza kéo dài cùng với sự trở lại của Donald Trump, chiến tranh có thể lan rộng ra toàn khu vực. Liên Hiệp Châu Âu một lần nữa có nguy cơ đối mặt với những làn sóng di dân, các cuộc tấn công khủng bố ồ ạt và có nhiều nguy cơ bị lôi kéo vào xung đột ở Gaza.
Donald Trump trở lại: Thắng lợi cho tổng thống Nga !
Nhưng thủ tướng Israel không phải là người duy nhất tính đến nước cờ này. Vladimir Putin, người mà lãnh đạo Israel có mối quan hệ mật thiết hơn là với Joe Biden, cũng tin rằng việc ông Trump tái đắc cử sẽ là một thắng lợi cho nước Nga trong cuộc chiến xâm lược Ukraina.
Cuộc xung đột ở dải Gaza bùng phát hồi tháng 10/2023 đã là « món lộc trời ban » cho tổng thống Nga. Chiến sự bùng nổ đẩy nước Mỹ của Joe Biden rơi vào trạng thái « tả xung hữu đột » và công luận quốc tế bị chuyển hướng sang Cận Đông. Donald Trump trở lại cũng đồng nghĩa với việc xoa dịu được tư tưởng bài Nga và nhất là có thể cắt nguồn hậu thuẫn tài chính cho Ukraina.
Donald Trump, trong một cuộc vận động cho bầu cử sơ bộ, trước những người ủng hộ ông, từng tuyên bố : « Tôi sẽ giải quyết cuộc chiến sau một ngày, trong vòng 24 giờ ! ». Theo giải thích của nghị sĩ Châu Âu Bernard Guetta, điều đó có nghĩa là, « ông ấy sẽ nói với ông Putin là "ông hãy giữ phần lãnh thổ mà ông đã chiếm được tại Ukraina, còn tôi sẽ ngưng hỗ trợ cho Ukraina. »
Đây cũng là cách diễn giải của nhà sử học quân sự Philips O’Brien3, trường đại học St-Andrews : « Điều ông sẽ làm là đề nghị hoặc buộc Ukraina nhượng lãnh thổ cho Putin. Tôi nghĩ ông tin rằng Putin là người mà ông có thể đàm phán. »
Ngay từ đầu cuộc xung đột, nếu như lưỡng đảng cho tới nay gần như nhất trí ủng hộ tài trợ cho quốc phòng Ukraina, thì Donald Trump luôn chất vấn về sự hậu thuẫn dành cho Kiev. Đây cũng không phải là điều gì mới mẻ. Trong quá khứ, khi còn tại nhiệm, nhà tỷ phú bất động sản này đã bị chỉ trích có mối quan hệ « nồng ấm » với nguyên thủ Nga. Ông còn bị cáo buộc đã đe dọa cắt nguồn viện trợ cho Kiev trừ phi chính phủ tổng thống Zelensky chịu tiết lộ những điều xấu xa về Joe Biden và con trai ông là Hunter Biden.
Theo đánh giá của Philips O’Brien, điều nguy hiểm ở đây là Donald Trump xem chính sách đối ngoại cũng như chính trị là « một con đường để trục lợi cá nhân ». Đối với ông, « NATO, đồng minh hay Ukraina đều không quan trọng. Tốt nhất hãy thực hiện một thỏa thuận có lợi cho Donald Trump ».
Cơ hội đắc cử tổng thống lần hai của Donald Trump ngày một lớn. Tại Mỹ, người dân bắt đầu mệt mỏi về những cuộc can thiệp quân sự. Các chiến dịch quân sự bên ngoài, từ Việt Nam cho đến Afghanistan, đều kết thúc bằng cái giá rất đắt cả về nhân mạng và vật chất. Các cuộc thăm dò mới nhất cho thấy gần một nửa số người Mỹ được hỏi cho rằng chính phủ đã chi quá nhiều tiền để hỗ trợ cho cuộc chiến chống Nga. Và tỷ lệ này còn cao hơn đáng kể trong số các cử tri đảng Cộng Hòa.
Nguy cơ nước Mỹ trở lại với chủ nghĩa biệt lập ?
Chuyên gia về Mỹ Jérôme Viala-Gaudefroy4, trường đại học Khoa học Chính trị nhận định, Donald Trump trở lại Nhà Trắng còn đồng nghĩa với việc nước Mỹ quay về với chủ nghĩa biệt lập.
« Vladimir Putin ở Nga, rồiTập Cận Bình ở Trung Quốc, chúng ta thấy rằng Trump thực sự đang thúc đẩy một làn sóng chủ nghĩa biệt lập tồn tại đặc biệt ở phe Cộng Hòa. Có một kiểu mệt mỏi vì chiến tranh, sau cuộc chiến chống khủng bố, cuộc chiến ở Irak. Thực sự có mong muốn thoái lui này. Người ta nói rằng trước tiên chúng ta phải quan tâm đến biên giới của mình, những gì đang xảy ra trong nước và còn thế giới là chuyện của họ. Ukraina là vấn đề của châu Âu. Thậm chí, một số cố vấn của Trump còn chất vấn về sự tham gia của Hoa Kỳ vào NATO. Dù vậy, đối với Mỹ, liên minh này vẫn là một điều quan trọng vì Quốc Hội gần đây đã thông qua một nghị quyết buộc tổng thống phải có sự đồng ý của Quốc Hội và 3/4 lá phiếu Thượng viện để có thể rút khỏi NATO. »
Sự trở về của Trump còn hàm chứa nhiều rủi ro xảy ra hỗn loạn trên chính trường Mỹ như những gì từng xảy ra trong nhiệm kỳ đầu. Donald Trump chỉ sẽ làm những gì mình muốn, và « trong trường hợp này, mọi tiền lệ đều bị loại bỏ », ông Philips O’Brien cảnh báo. Nhưng một tình trạng hỗn loạn ở Mỹ, và một nền dân chủ Mỹ bị suy giảm, chính xác là điều mà ông Putin và nhiều kẻ thù khác của Mỹ đang mong đợi.
Tại châu Á, các đồng minh của Mỹ lo lắng trước nguy cơ Donald Trump đắc cử tổng thống. Những nỗ lực của chính quyền Biden nhằm tăng cường các mối quan hệ đồng minh, từ Tuyên bố Washington về liên minh quân sự Mỹ – Hàn, tuyên bố Camp David ba bên Mỹ – Nhật – Hàn và quan hệ đối tác công nghiệp quốc phòng AUKUS có nguy cơ không còn tồn tại trong quá trình chuyển đổi chính trị ở Washington.
Dù vậy, chuyên gia địa chính trị Bertrand Badie5, giáo sư danh dự trường đại học Khoa học Chính trị vẫn đưa ra chút tín hiệu lạc quan khi cho rằng người ta có xu hướng đánh giá thấp khả năng chống chọi mạnh mẽ của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ. Trên đài RFI Pháp ngữ ngày đầu năm 2024, ông phân tích :
« Mỹ không thay đổi chính sách đối ngoại dễ dàng như chúng ta nghĩ. Thậm chí chúng ta có chút xu hướng châm biếm nhiệm kỳ tổng thống Trump, đã thể hiện sự khác biệt với các đời tổng thống Mỹ khác bằng những cử chỉ mang tính biểu tượng ngoạn mục, chẳng hạ như rút khỏi các tổ chức quốc tế, di dời đại sứ quán Mỹ ở Israel, và nhiều việc khác như rút khỏi thỏa thuận về hạt nhân Iran…
Nhưng chưa bao giờ có bất kỳ thay đổi thực sự nào trong định hướng chính sách đối ngoại của Mỹ ngoại trừ việc, cứ như chúng ta nói, có một mong muốn, đã được khởi xướng từ thời Obama, là thoái lui khỏi các cuộc xung đột lớn trên thế giới.
Cho dù đó là Trump hay Biden, thì điều đó cũng giống nhau, ngay cả khi Biden tỏ ra nhạy cảm với cánh tả trong đảng Dân chủ ngày càng kêu gọi, nếu không ủng hộ người Palestine, thì ít nhất là trung lập hơn, và chúng ta đã thấy điều đó đặc biệt trong các cuộc bỏ phiếu gần đây tại Hội Đồng Bảo An.
Chính sách ngoại giao của Mỹ không thay đổi. Đây là mặt ổn định, mạnh hơn chúng ta nói mà các nhà bình luận không có thói quen nhắc đến. »
---------- ********** ----------
Tham khảo :
1. Bernard Guetta : "Deux hommes attendent frénétiquement le retour de Trump : Netanyahou et Poutine", France Inter ngày 01/01/2024.
2. « Le destin de l’Europe en 2024 se jouera à Gaza », Le Monde ngày 31/12/2023.
3. Is Trump a bigger threat to Ukraine than Putin in 2024? Channel 4 News, ngày 29/12/2023.
4. La présidentielle 2024 aux États-Unis : Donald Trump le retour ? TV5 Monde ngày 16/12/2023.
5. Quel impact des élections européennes et américaines sur les conflits à Gaza et en Ukraine? RFI ngày 01/01/2024.
Thu, 04 Jan 2024 - 81 - Ukraina, Cận Đông, châu Á … thách thức uy tín siêu cường Mỹ
Chỉ còn vài ngày nữa là năm 2023 khép lại. Khác với mọi năm, châu Âu đón giao thừa với hai cuộc chiến tranh lớn trước cửa nhà, một tại Ukraina và một ở dải Gaza. Trong khi đó ở châu Á, bán đảo Triều Tiên, eo biển Đài Loan, Biển Đông, nguy cơ xung đột vũ trang cũng đang chực chờ bùng phát. Và cũng chưa có lúc nào, uy tín của siêu cường Mỹ bị thách đố gay gắt như trong năm nay.
Ngày 07/10/2023, thế giới bất ngờ trước một chiến dịch « đánh úp » đẫm máu của phe Hamas nhằm vào nhiều địa phương, giết chết hơn 1.140 thường dân Israel, và bắt theo hơn 250 con tin. Nếu như thế giới lên án hành động giết người với một mức độ tàn bạo chưa từng có của lực lượng vũ trang người Palestine này – bị Hoa Kỳ, Liên Hiệp Châu Âu và Israel xếp vào diện khủng bố – thì các cuộc tấn công trả đũa của quân đội Israel ở dải Gaza, làm hơn 20 ngàn thường dân Palestine thiệt mạng và hàng triệu người dân phải bỏ nhà cửa chạy lánh nạn, cũng bị cộng đồng quốc tế kịch liệt chỉ trích.
Israel muốn an ninh, không cần hòa bình
Làm thế nào giải thích cho sự trở lại của « tình trạng man rợ » này ? Nhà địa chính trị học, Carole André-Dessornes, chuyên gia về tương quan lực lượng và bạo lực ở Trung Đông, trên đài RFI ngày 23/12/2023 giải thích, xung đột bùng phát là vì cộng đồng quốc tế từ lâu vẫn phủ nhận chính nghĩa của người Palestine, từ chối nhìn thẳng vào vấn đề.
« Chúng ta nên hiểu rằng tình hình nguyên trạng là hầu như không trụ được. Người ta đã quên rằng dải Gaza bị phong tỏa từ năm 2007 và có hơn hai triệu người sinh sống trên một diện tích rộng chỉ có 370 cây số vuông, do vậy khó thể mà sống được. Thêm vào đó là việc tăng tốc xây dựng các khu định cư Do Thái ở phía Đông Jerusalem và Cisjordanie. Rồi còn có một giới trẻ hoàn toàn tuyệt vọng bởi vì họ thật sự chẳng có tương lai. »
Đâu là lối thoát cho xung đột ? Người ta nói nhiều đến giải pháp « Hai Nhà nước ». Một giải pháp mà ông Gérard Araud, cựu đại sứ Pháp tại Israel, Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ, trong một phiên điều trần trước Ủy ban Đối ngoại về Tình hình Israel của Hạ Viện, hồi trung tuần tháng 11/2023 đánh giá là điều không thể. Ông giải thích :
« Vấn đề cốt lõi của Cisjordanie nằm ở điểm đây là vùng đất thánh. Ở đây quý vị có hai cản trở chính. Thứ nhất là cản trở an ninh. Bởi vì, khi hình thành Nhà nước Palestine tại Cisjordanie, tức là chúng ta sẽ có một Nhà nước Palestine chỉ nằm cách Tel Aviv có 14 km, cách sân bay quốc tế Ben Gourion của Israel 5 km. Vì vậy, chỉ cần một quả rốc – kết là Israel ngừng hoạt động.
Hơn nữa, người dân Israel họ không muốn hòa bình, họ muốn có an ninh. Nghĩa là, theo một cách nào đó, Israel luôn trong tình trạng chiến tranh từ năm 1948 và có thể nói rằng, Israel đã quen sống trong những điều kiện như thế. Nhưng đối với họ, mục tiêu chính yếu vẫn là An Ninh.
Điều thứ hai, đó là một nền an ninh phải do chính họ bảo đảm. Do lịch sử đất nước, người Israel không tin tưởng bất kỳ ai cho an ninh của mình và đương nhiên là cả với Hoa Kỳ chẳng hạn. Do vậy, bất kỳ ý tưởng nào về một lực lượng quốc tế, lực lượng các nước Ả Rập, hay một lực lượng Liên Hiệp Quốc đều không có chút cơ may nào được chấp nhận bởi một đất nước mà tôi có thể nói là bị cuồng ám ».
Ẩn sau cuộc xung đột này còn là một « ván cờ lớn » giữa các cường quốc trong khu vực. Chiến sự bùng phát là một đòn giáng, chặn đường Israel bình thường hóa quan hệ với nhiều nước Ả Rập, đặc biệt là Ả Rập Xê Út trong khuôn khổ Thỏa thuận Abraham, được thương lượng dưới sự chủ trì của chính quyền Donald Trump năm 2020. Đối với Iran, nước cờ này của Mỹ và Israel là một mối đe dọa, có thể làm đảo lộn thế tương quan lực lượng trong Vùng Vịnh, có lợi cho Ả Rập Xê Út. Súng phóng lựu có gắn đầu đạn áp nhiệt do Hamas sử dụng là một bằng chứng cho sự can dự của Teheran.
Ukraina : Cuộc chiến tiêu hao của Nga
Xung đột ở dải Gaza đang che lấp một cuộc chiến khác kéo dài từ gần hai năm : Cuộc chiến chống quân xâm lược Nga của Ukraina, đang diễn ra gay gắt trong những ngày cuối năm. Cuộc phản công của Kiev mà các đồng minh phương Tây trông đợi, bắt đầu từ tháng Sáu đã gặp thất bại, như thừa nhận của Tổng tham mưu trưởng quân đội Ukraina với tuần báo Anh The Economist. Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky trong cuộc họp báo truyền thống cuối năm phải nhìn nhận « chiến tranh không biết hồi nào kết thúc ».
Lời thừa nhận chua chát được đưa ra vào lúc tổng thống Joe Biden chưa thông qua được gói viện trợ bổ sung 60 tỷ đô la cho Ukraina do vấp phải những phản đối mạnh mẽ từ đảng đối lập Cộng Hòa. Tệ hơn nữa, theo báo cáo do Viện Nghiên cứu Kinh tế Quốc tế Kiel của Đức, cam kết trợ giúp của các nước đồng minh của Kiev trong năm 2023 đã rớt xuống « mức thấp nhất » tính từ đầu cuộc chiến xâm lược của Nga vào tháng 2/2022.
Trong khi đó, quân đội Nga được chi viện thêm 300 ngàn quân dự bị, và trang bị thêm nhiều vũ khí đạn dược từ nhiều nguồn cung như Iran, Bắc Triều Tiên, gia tăng oanh kích Ukraina ngày đêm, mở nhiều cuộc tấn công khác. Hạ Viện Nga cuối tháng 10/2023 còn thông qua một khoản ngân sách quốc phòng cho năm 2024, tương đương với mức 107 tỷ euro, chiếm khoảng 6% GDP của đất nước, tăng 70% so với năm 2023 (3,9% GDP).
Quyết định này thể hiện quyết tâm theo đuổi chiến dịch quân sự trong dài hạn, một cuộc chiến tiêu hao chống Ukraina. Giáo sư địa chính trị, Carole Grimaud, chuyên gia về Không gian hậu Xô Viết, nhà sáng lập Trung tâm Nghiên cứu về Nga và Đông Âu (Center for Russia and Eastern Europe Research – CREER) tại Geneve, trên làn sóng RFI ngày 09/12/2023 phân tích :
« Đây là một cuộc chiến tiêu hao. Chúng ta đã thấy điều này ngay từ đầu cuộc chiến. Vào lúc các mục tiêu của Nga không thể đạt được ở miền Nam,chiến sự đã diễn ra ở phía đông đất nước và phía nam với các vùng lãnh thổ bị chinh phục. Cuối cùng, Nga đã đóng quân trên những vùng lãnh thổ bị chiếm đóng với những tuyến phòng thủ mà rủi thay, họ đã có thời gian dựng lên. Và tình trạng này hiện đặt Ukraine vào thế khó khăn trong cuộc phản công, vốn không mang lại kết quả như chúng ta mong đợi.
Với 17% lãnh thổ Ukraina bị Nga chiếm đóng, nên đây là một cuộc chiến tiêu hao, một cuộc chiến hiện diện ở nước này. Vào lúc mùa đông đang đến và với thất bại của cuộc phản công, người ta sẽ phải chứng kiến tình trạng này kéo dài trong nhiều tháng, thậm chí là nhiều năm. »
Biển Đông, eo biển Đài Loan : Mặt trận thứ ba cho Mỹ ?
Điều đáng chú ý là trong cả hai cuộc chiến, tuy không cùng tác nhân, không cùng lý lẽ, nhưng đều có sự can dự của Hoa Kỳ. Tại Ukraina, Washington tham gia gián tiếp thông qua các khoản viện trợ vũ khí và tài chính. Còn với Israel, Mỹ can dự trực tiếp qua việc cung cấp đạn dược, triển khai lực lượng khi cho điều hai hàng không mẫu hạm đến Đông Địa Trung Hải và nhất là bằng lá phiếu phủ quyết ở Liên Hiệp Quốc.
Nhưng Hoa Kỳ có thể « gồng mình » che chở cho các đồng minh đến đâu nếu như có thêm một mặt trận thứ ba ở châu Á ? Các vụ va chạm giữa hải quân Trung Quốc và Philippines tại những vùng lãnh hải có tranh chấp ở Biển Đông trong năm 2023 đã gia tăng đáng kể. Chính quyền Manila xích lại gần hơn với Washington khi quyết định mở thêm bốn căn cứ quân sự cho quân đội Mỹ bố trí vũ khí và luân chuyển quân.
Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 19/12/2023, giảng viên Laurent Gédéon, trường đại học Sư phạm Lyon giải thích, Bắc Kinh luôn ý thức rằng « Philippines là một nhân tố - và là một tác nhân quan trọng – trong các nước cờ nếu xảy ra xung đột ở Đài Loan. Điều này không chỉ do mối quan hệ đồng minh của Manila với Mỹ, mà còn do vị trí địa lý gần gũi của quần đảo với Đài Loan. »
Chẳng phải vì thế mà Trung Quốc trắc nghiệm thường trực phản ứng của Mỹ hay sao ? Bài phân tích trên France Inter ngày 12/12 cũng tự hỏi : Đã can dự vào nhiều nơi khác, liệu Hoa Kỳ có thật sự muốn, hoặc có đủ năng lực để can thiệp chỉ vì một hòn đá mang tính biểu tượng ở Biển Đông ?
Việc rút quân trong hỗn loạn ở Kabul năm 2021 từng bị Matxcơva diễn giải như là một tín hiệu rằng Washington có lẽ sẽ không hành động gì đối với cuộc xâm lược Ukraina xảy ra sáu tháng sau đó. Do vậy, việc bỏ rơi Ukraina ngày nay cũng có nguy cơ đưa ra một tín hiệu tương tự cho Trung Quốc ở châu Á. Đó là chưa kể đến những hành động khiêu khích của Bình Nhưỡng trên bán đảo Triều Tiên.
Chưa có lúc nào vị thế siêu cường của Mỹ bị thử thách mạnh mẽ như lúc này. Với vai trò là cường quốc hàng đầu, Hoa Kỳ buộc phải liên tục đặt uy tín của mình lên hàng đầu trước mỗi cuộc khủng hoảng, mỗi thách thức từ một cường quốc khác. Nhưng vấn đề thực sự đặt ra là liệu Mỹ có còn muốn giữ thứ hạng này hay không.
Trong chưa đầy một năm nữa, Hoa Kỳ sẽ tổ chức bầu cử tổng thống. Chiếc bóng của Donald Trump ngày một lớn, và người ta có nhiều rủi ro nhìn thấy sự đối đầu về hai tầm nhìn đối nghịch nhau về thế giới cũng như là vai trò của Mỹ. Bài phân tích lưu ý : Cử tri Mỹ sẽ không bỏ phiếu cho việc ủng hộ hay chống trợ giúp Ukraina, hậu thuẫn Israel hay can thiệp vào Biển Đông, nhưng lá phiếu của họ sẽ có những tác động lớn cho tất cả các cuộc khủng hoảng này !
Thu, 28 Dec 2023 - 80 - Philippines trong vòng xoáy căng thẳng Mỹ-Trung trên vấn đề Đài Loan
Sau một quãng thời gian « tuần trăng mật » ngắn ngủi, căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines lại dấy lên xung quanh những đảo đá ngầm đang có tranh chấp ở Trường Sa, Biển Đông. Trung Quốc trong năm 2023 không ngừng có những hành động gây hấn, tấn công các tầu Philippines tại những nơi mà Manila cho là thuộc chủ quyền lãnh thổ của mình. Đáp lại, chính phủ tổng thống Marcos Jr. ngày càng tỏ thái độ cứng rắn hơn với Trung Quốc khi tuyên bố « bảo vệ từng milimet lãnh thổ ».
Làm thế nào giải thích cho những căng thẳng này giữa Bắc Kinh và Manila ở Biển Đông ? Chính sách cứng rắn này của Philippines liệu có hiệu quả ? Liệu Việt Nam và Philippines có thể thành lập một liên minh để đối phó với Trung Quốc trong các tranh chấp ở Biển Đông ? Giảng viên Laurent Gédéon, trường đại học Sư phạm Lyon trong cuộc phỏng vấn dành cho RFI Tiếng Việt, nhận định rằng Philippines hiện nằm trong tâm ván cờ đọ sức giữa hai đại cường thế giới liên quan đến vấn đề Đài Loan.
**********
RFI Tiếng Việt: Trong hai ngày 09-10/12/2023, đã xảy ra vụ va chạm giữa tầu của Philippines và tuần duyên Trung Quốc, gần Bãi Cỏ Mây, ở Biển Đông. Nguyên nhân của sự cố này là gì ?
Laurent Gédéon : Vụ va chạm này, thực chất chỉ là sự cố mới trong một chuỗi dài. Hôm 03/12/2023, Philippines đã cho biết là hai trong số tầu tuần tra của họ đã đếm thấy có hơn 135 tầu Trung Quốc được triển khai xung quanh Đá Ba Đầu (hay còn được gọi là Julian Felipe) ; cách đảo Palawan 320 km về phía Tây.
Trong cùng khu vực này, tuần duyên Philippines ngày 13/11 đã phát hiện 111 tầu « dân quân biển Trung Quốc ». Rồi vào ngày 22/10, tầu của Trung Quốc đã chặn đường tiếp tế cho lực lượng đồn trú Philippines hiện diện tại một trong các đảo nhỏ ở Trường Sa.
Vào tháng 9/2023, hành động ngăn chặn tương tự đã ảnh hưởng đến tầu tiếp tế cho lực lượng đồn trú của Philippines trên một con tầu mắc cạn ở Bãi Cỏ Mây. Xin lưu ý thêm rằng vào năm 2021, khoảng 210 tầu Trung Quốc đã neo đậu gần Đá Ba Đầu trong nhiều tuần lễ. Vào thời điểm đó, Bắc Kinh đã tuyên bố rằng đây là những tầu đánh cá đang trú ẩn vì thời tiết xấu.
Chúng ta phải đặt những sự cố cuối năm này và lập trường của Trung Quốc trong những diễn tiến gần đây, một mặt trong mối quan hệ Hoa Kỳ - Philippines và mặt khác, trong bối cảnh căng thẳng gia tăng thường xuyên xung quanh đảo Đài Loan.
Chúng ta còn nhớ là tổng thống Marcos Jr đã chọn Bắc Kinh cho chuyến thăm cấp Nhà nước đầu tiên bên ngoài khu vực Đông Nam Á, và dường như đó là một phần trong mong muốn xoa dịu Trung Quốc.
Nhưng hướng hành động này đã gặp khó khăn trong một bối cảnh nỗi lo về một cuộc xung đột ở eo biển Đài Loan và nguy cơ lây lan sang Biển Đông bao trùm. Đối phó với việc Bắc Kinh không nhượng bộ, Manila đã ưu tiên siết chặt hơn liên minh với Mỹ.
Tuy nhiên, Philippines vẫn mong muốn duy trì thế cân bằng giữa một bên là mối quan hệ an ninh với Mỹ và bên kia là mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc.
Từ quan điểm của Bắc Kinh, Philippines là một nhân tố - và là một tác nhân quan trọng – trong các nước cờ nếu xảy ra xung đột ở Đài Loan. Điều này không chỉ do mối quan hệ đồng minh của Manila với Mỹ, mà còn do vị trí địa lý gần gũi của quần đảo với Đài Loan. Thật vậy, những hòn đảo ở cực bắc của Philippines cách Đài Loan chưa đầy 400 km.
Trung Quốc cũng nhận thức được rằng Philippines là một yếu tố rất quan trọng cho Mỹ trong nỗ lực xây dựng một chuỗi liên minh quân sự trải dài từ Hàn Quốc và Nhật Bản cho đến Úc với một mục tiêu duy nhất là ngăn chặn đà tiến của Hải Quân Trung Quốc.
Đây là lý do vì sao Bắc Kinh thường xuyên gởi cảnh báo ngoại giao và an ninh đến Manila. Chính vì để cản trở càng nhiều càng tốt quá trình xích lại gần giữa Philippines và Mỹ mà Trung Quốc gây áp lực mạnh với Manila, bao gồm cả các biện pháp cưỡng ép kinh tế và các chiến dịch ở Biển Đông.
Trung Quốc còn tìm cách chứng minh cho các nước trong khu vực thấy rằng Hoa Kỳ không phải là một đồng minh đáng tin cậy. Để thực hiện điều đó, Bắc Kinh gia tăng các hành động khiêu khích, gây áp lực và tìm cách buộc Philippines phải chấp nhận lằn ranh đỏ do Trung Quốc vạch ra, còn nếu từ chối, thì có nhiều rủi ro phải trả giá đắt.
Philippines còn tố cáo mạnh mẽ hành động hung hăng của Trung Quốc, mà chiến dịch « Name and Shame » (tạm dịch là Nêu tên và Làm xấu hổ) là một ví dụ mới nhất. Liệu đây có là một chiến thuật « hiệu quả » ?
Laurent Gédéon : Khó có thể nhận xét về hiệu quả thực sự của chiến thuật này vì lập trường của mỗi bên dường như đã tương đối cố định :
Đối với một bộ phận các tác nhân, ít nhiều có dấn thân sâu cùng với Hoa Kỳ, thì sự phản đối Trung Quốc đã là mạnh mẽ và họ hoàn toàn ủng hộ cho quan điểm của Philippines. Nhưng số khác thì có lập trường nước đôi trong quan hệ với Bắc Kinh. Do vậy, chỉ khi có một sự thay đổi mạnh mẽ hay một sự kiện rất quan trọng thì mới có thể khiến những nước này có thái độ phản đối rõ ràng hơn đối với Bắc Kinh.
Trong hoàn cảnh này, Manila đang áp dụng một chiến lược răn đe đối với Trung Quốc. Nhưng chiến lược này phải cứng rắn và đáng tin cậy để ngăn chặn tham vọng của Bắc Kinh. Chúng được bắt đầu từ những chính sách xích lại gần và thiết lập quan hệ đồng minh, đặc biệt là với Mỹ, Nhật Bản, Úc và Việt Nam.
Chiến lược này cũng liên quan đến việc gây áp lực ngoại giao thông qua ASEAN. Tuy nhiên, kết quả đạt được không như mong đợi bởi vì các cuộc đàm phán kéo dài hàng thập kỷ về một bộ Quy tắc Ứng xử có tính ràng buộc về mặt pháp lý ở Biển Đông chưa mang lại kết quả.
Cách tiếp cận này còn được thực hiện thông qua cách gây áp lực pháp lý như được chứng minh qua vụ kiện Trung Quốc trước Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye năm 2013. Phán quyết đưa ra năm 2016 là có lợi cho Philippines nhưng bị Bắc Kinh chỉ trích gay gắt.
Hiện nay, Manila cũng đang xem xét nộp đơn khiếu nại lần thứ hai lên tòa án cáo buộc Bắc Kinh đang phá hủy các rạn san hô trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Vì vậy, chúng ta có thể nhận thấy là hiệu quả của chiến thuật này là tương đối !
Vậy theo ông, việc tổng thống Marcos Jr. tái định hướng lại chính sách Biển Đông khi xích lại gần Mỹ hơn, mở nhiều quan hệ đối tác với nhiều nước khác như Nhật Bản, Úc… có thể được xem như là một sự trở về với chính sách của tổng thống Aquino III ?
Laurent Gédéon : Nhìn chung, chính sách đối ngoại của Philippines dao động tùy theo tổng thống đương nhiệm. Trong suốt hai thập kỷ qua, hầu như tất cả các đời tổng thống Philippines đều cố gắng duy trì mối quan hệ hài hòa với Trung Quốc. Trong hai thập kỷ qua, hầu như tất cả các tổng thống Philippines đều cố gắng duy trì mối quan hệ ổn định với Trung Quốc.
Tổng thống Philippines Gloria Arroyo (2001-2010) ủng hộ « thời kỳ hoàng kim » cho quan hệ đối tác chiến lược toàn cầu với Bắc Kinh.
Tổng thống Benigno Aquino III (2010 – 2016) ban đầu đi theo đường lối tương tự như người tiền nhiệm nhưng cuộc khủng hoảng bãi cạn Scarborough năm 2012 đã đẩy ông vào thế đối đầu hơn ở Biển Đông và lại trở về chính sách xoay trục sang phương Tây.
Đến thời tổng thống Rodrigo Duterte (2016 – 2022), khi xem Trung Quốc là đối tác thiết yếu cho sự phát triển, ông ấy đã hạ thấp tầm mức các tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông và cản trở việc thắt chặt hợp tác an ninh với các đồng minh phương Tây truyền thống, nhất là Hoa Kỳ.
Khi lên cầm quyền vào tháng 6/2022, tổng thống Marcos Jr. đã cố gắng duy trì mối quan hệ hữu hảo với Bắc Kinh. Ngay từ đầu, ông ấy đã nói với các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng ông quyết tâm đưa mối quan hệ song phương « sang một cấp cao hơn ».
Nhưng vì Trung Quốc không đáp trả những mong mỏi từ Philippines, đặc biệt là về các tranh chấp ở Biển Đông, tổng thống Marcos đã quyết định chuyển hướng sang Mỹ một cách ngoạn mục nhằm gây áp lực với Trung Quốc và tìm cách đạt được một số lợi thế bất kể là về ngoại giao hay trên thực địa.
Dù vậy, ông Marcos Jr. đã nhiều lần cố gắng trấn an cường quốc châu Á rằng việc mở rộng hợp tác quốc phòng với Mỹ là không nhằm vào Trung Quốc. Ông ấy nhấn mạnh rằng Philippines chỉ thuần túy đi theo hướng phòng thủ.
Hơn nữa, ở trong nước, áp lực từ công luận và giới tinh hoa chính trị Philippines ngày càng lớn, đi theo hướng có một lập luận cứng rắn hơn đối với Trung Quốc và tăng cường hợp tác an ninh với các đồng minh của Manila.
Chính sách ngoại giao này đang đặt Manila vào tâm điểm cuộc đối đầu giữa hai đại cường. Liệu Philippines có thể thực sự trông cậy vào Mỹ để đối phó với Trung Quốc ?
Laurent Gédéon : Mỹ và Philippines có mối quan hệ an ninh rất chặt chẽ bởi vì hai bên đã có nhiều thỏa thuận an ninh từ lâu, và có thể nói, Philippines là quốc gia gần gũi nhất và là đồng minh lâu đời nhất của Mỹ trong khu vực, bắt đầu từ năm 1951 với Hiệp ước Phòng thủ chung (Mutual Defense Treaty – MDT).
Kể từ đó, luôn có những cuộc đàm phán và điều chỉnh lại. Ví dụ, năm 1991, Thượng Viện Philippines không muốn gia hạn thỏa thuận này, kết quả là năm 1992, Mỹ phải rút quân về nước. Nhưng vào năm 1998, Mỹ và Philippines đã đúc kết thỏa thuận về lực lượng nước ngoài, mà người ta gọi là Visiting Forces Agreement (VFA), nhằm tăng cường hợp tác giữa hai nước.
Đến 2020, tổng thống Rodrigo Duterte đã ra lệnh chấm dứt thỏa thuận này nhưng sau đó ông buộc phải thay đổi quyết định do mối quan hệ chiến lược sâu rộng với Mỹ và do vậy, thỏa thuận này đã được khôi phục lại vào tháng 7/2021.
Tháng 4/2023, một thỏa thuận quan trọng đã được ký kết bởi vì chính phủ Philippines đã chỉ định thêm bốn căn cứ quân sự để quân đội Mỹ có thể cất trữ trang thiết bị phòng thủ và luân chuyển binh sĩ. Và người ta nhận thấy ba trong số các điểm mới này nằm ở phía bắc đảo Luzon, hòn đảo cực bắc của Philippines, tức là khu vực nhìn ra eo biển Luzon, nhìn ra Đài Loan. Còn căn cứ thứ tư nằm trên đảo Balabac, ở cực nam Philippines, nhìn ra Biển Đông và quần đảo Trường Sa.
Chúng ta thấy rằng những cơ sở quân sự này của Mỹ ở Philippines có một ý nghĩa chiến lược cao và Hoa Kỳ gần đây đã nêu rõ là các cuộc tấn công nhắm vào tầu tiếp liệu của Philippines rất có thể được đưa ra trong khuôn khổ thỏa thuận phòng thủ chung.
Do vậy, khi tính đến tất cả các yếu tố này, chúng ta có thể nhận thấy rằng sự gần gũi về chiến lược giữa hai nước là rất lớn. Hơn nữa, Philippines dường như được xem là một nhân tố thiết yếu trong giả thuyết có khả năng xảy ra xung đột ở Đài Loan do việc nước này kiểm soát eo biển Luzon và sự gần gũi về địa lý với Đài Loan.
Theo quan điểm của tôi, với giá trị chiến lược gia tăng rất cao của Philippines, khả năng Mỹ không can dự trực tiếp bên cạnh đồng minh của trong trường hợp có đe dọa trực tiếp là cực kỳ thấp.
Philippines cũng tìm cách thiết lập nhiều mối quan hệ đối tác mới với nhiều nước khác trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam. Trong năm đầu nhiệm kỳ tổng thống, ông Marcos đã tổ chức ít nhất ba cuộc họp với các lãnh đạo cao cấp Việt Nam. Một liên minh Việt Nam – Philippines liệu có thể đi đến một kết quả thú vị cho cả hai bên ?
Laurent Gédéon : Việt Nam và Philippines phải xác định được các lợi ích chung cũng như các điểm đối lập để vạch ra một đường lối chung. Theo tôi, trước khi vạch ra một đường hướng chung, cả Hà Nội lẫn Manila phải tự hỏi xem họ có một ý chí chính trị để đi theo hướng này hay không, một mong muốn mà dường như hiện tại vẫn chưa có.
Dù gì đi chăng nữa, giữa Việt Nam và Philippines có nhiều điểm hội tụ : Đôi bên có cùng một cách hiểu về Trung Quốc, đó vừa là một đối tác kinh tế không thể thiếu, vừa là một mối đe dọa an ninh cho ngư dân của họ và là một đối thủ cạnh tranh địa chính trị tại quần đảo Trường Sa.
Cả Việt Nam và Philippines đều cùng tham gia Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển. Không giống như Trung Quốc, hai nước cho rằng phạm vi áp dụng cũng có hiệu lực cho vùng Biển Đông.
Trên bình diện địa chính trị, Việt Nam và Philippines có xu hướng ngả về phía Hoa Kỳ, và xu hướng được thấy rõ nét trong trường hợp của Philippines do bị ràng buộc bởi các thỏa thuận quân sự với Mỹ, nhưng ít được khẳng định hơn đối với Việt Nam. Nhưng chúng ta cũng nhận thấy rằng những năm gần đây, sự hợp tác giữa Hà Nội và Washington đã tăng lên.
Việt Nam và Philippines cùng đối mặt với những hành động hăm dọa nhằm vào ngư dân của mình ở quần đảo Trường Sa. Cả hai nước cũng có hiện diện quân sự ở Trường Sa, và cùng chia sẻ mối ngờ vực về tính chất vô dụng của khối ASEAN.
Đổi lại, giữa hai nước tồn tại nhiều điểm bất đồng không thể bỏ qua. Trước hết hai nước có những yêu sách lãnh thổ ở quần đảo Trường Sa. Mặt khác, Philippines có liên kết quân sự với Mỹ mang tính ràng buộc, bởi vì trong trường hợp xảy ra xung đột ở khu vực, Manila có nguy cơ bị ảnh hưởng nhưng Việt Nam thì không.
Từ bối cảnh chung này, theo tôi, Việt Nam và Philippines nên lường trước một cách hiệu quả chiến lược chung, nếu họ quyết định chọn một chiến lược, trước một cuộc xung đột có thể xảy ra, thay vì có nguy cơ bị bất ngờ để rồi bị rơi vào một cuộc xung đột không được lường trước.
Một yếu tố khác không kém phần quan trọng liên quan đến việc giải quyết tranh chấp quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam và Philippines. Chính quyền Hà Nội khó mà không xem xét lại các tham vọng theo chủ nghĩa tối đa đối với các đảo trong quần đảo nếu nước này muốn đạt được một thỏa thuận với Manila.
Khó có khả năng là Hà Nội sẽ không can dự bằng cách này hay cách khác vào một cuộc xung đột tiềm tàng xảy ra ở Đài Loan nếu Việt Nam không muốn bị lép vế trước Philippines, quốc gia chắc chắn sẽ là bên tham gia vào cuộc xung đột. Chí ít là một cách gián tiếp, và chắc chắn nhất là với tư cách là nguồn hậu cần chiến lược mang tính quyết định.
Vì vậy, tôi nghĩ rằng, cả hai nước nên tiếp tục đàm phán về những điều trên, cố gắng xác định những điểm mà đôi bên có thể đạt đồng thuận về những vấn đề chiến lược quan trọng.
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn ông Laurent Gédéon, giảng viên trường Đại học Sư phạm Lyon.
Thu, 21 Dec 2023 - 79 - Bầu cử Đài Loan 2024 và những nước cờ tính toán của Bắc Kinh
Vào tháng Giêng năm 2024, cử tri Đài Loan được mời gọi bầu chọn tổng thống và cơ quan lập pháp mới. Việc Bắc Kinh tăng cường các hoạt động quân sự xung quanh Đài Loan trong suốt năm nay làm dấy lên lời đồn thổi khả năng Trung Quốc chiếm đánh Đài Loan từ đây đến năm 2027. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát cho rằng, về mặt tâm lý, cuộc chiến « xâm chiếm » Đài Loan của Trung Quốc đang diễn ra tốt đẹp.
Ba điều thay đổi cốt lõi
Chuyên gia về chính sách đối ngoại Christian Le Miere1 trước hết nhận định : Cuộc bầu cử 2024 là cột mốc quan trọng cho 75 năm quan hệ Trung – Đài và đây sẽ là tiền đề cho bốn năm sắp tới.
Thứ nhất, kỳ bầu cử này sẽ chứng kiến sự kết thúc thời kỳ điều hành của chính phủ tổng thống Thái An Văn, nữ tổng thống đầu tiên của hòn đảo, người đã gần như chấm dứt chính sách gắn kết, nối lại quan hệ xuyên eo biển của người tiền nhiệm Mã Anh Cửu.
Thứ hai, trong suốt 8 năm cầm quyền của đảng Dân Tiến, đảng của bà Thái Anh Văn, người ta ghi nhận có một sự thay đổi lớn trong văn hóa và cảm nhận của người dân Đài Loan đối với Trung Quốc. Các cuộc khảo sát thường xuyên về bản sắc và ưu tiên chính trị của người dân Đài Loan cho thấy có một xu hướng ủng hộ độc lập và tự nhận là người Đài Loan nhiều hơn là người Trung Quốc2, tăng từ 55% (2018) lên đến 65% trong năm 2023, và sự ủng hộ đối với việc duy trì nguyên trạng nhưng hướng tới độc lập – trong số sáu lựa chọn – tăng từ 13% lên hơn 25%.
Nhiều các đánh giá, điều này một phần là do chính sách của chính quyền Bắc Kinh. Các cuộc biểu tình lớn chống luật an ninh quốc gia ở Hồng Kông đã khẳng định rằng khẩu hiệu « một quốc gia, hai chế độ » đã mất ý nghĩa trong mắt cử tri Đài Loan, khi tỏ ra lo ngại rằng các cuộc biểu tình đó là một lời kêu gọi chính đáng cho quyền bầu cử và đại diện của dân.
Thứ ba là có một sự thay đổi rõ nét về những căng thẳng quân sự trong khu vực. Từ thời chính quyền Donald Trump, Hoa Kỳ đã áp dụng chính sách kết hợp mang tính đối đầu hơn với Trung Quốc bao gồm cả việc can dự và hỗ trợ nhiều hơn cho Đài Loan cũng như là đã phá vỡ nhiều quy tắc bất thành văn như có các cuộc thăm viếng thường xuyên hơn của các chính trị gia cao cấp, sĩ quan quân đội và tầu hải quân Mỹ đến eo biển Đài Loan… Chính sách này còn được chính quyền Biden đẩy xa hơn khi lần đầu tiên đồng ý cho sử dụng nguồn quỹ Tài trợ Quân sự Nước ngoài (Foreign Military Financing – FMF) vào tháng 11/2023 để trang bị vũ khí cho Đài Loan.
Ngoài ra, Hoa Kỳ nỗ lực tái bố trí lực lượng sang Thái Bình Dương, xây dựng các mối quan hệ chiến lược chặt chẽ hơn với các đồng minh và đối tác trong khu vực như liên minh tầu ngầm AUKUS và Bộ Tứ - QUAD, cải thiện tư thế răn đe cũng như lực lượng sẵn sàng phản ứng nhanh trước khả năng xảy ra bất kỳ điều gì với Trung Quốc.
Đe dọa quân sự của Bắc Kinh
Những động thái này của Mỹ trong khu vực đã khiến Bắc Kinh giận dữ và đã có những phản ứng mạnh mẽ, đặc biệt là sau chuyến thăm của chủ tịch Hạ Viện lúc đó là bà Nancy Pelosi đến Đài Loan vào tháng 8/2022. Trung Quốc đáp trả bằng những cuộc tập trận hải – không quân quy mô lớn chưa từng có, thao dợt bao vây Đài Loan.
Kể từ đó, Trung Quốc về cơ bản loại bỏ đường phân chia không chính thức trước đây giữa Đài Loan và Hoa Lục, với việc máy bay quân sự thường xuyên băng qua đường trung tuyến ở eo biển, khiến đường phân chia ranh giới ảo này gần như trở nên dư thừa. Theo thông tín viên đài RFI, Adrien Simorre tại Đài Bắc, chỉ riêng trong tháng Chín, quân đội Đài Loan ghi nhận có đến 225 cuộc xâm nhập quanh không phận hòn đảo.
« Trên thực tế kể từ năm 2022, số vụ máy bay Trung Quốc xâm nhập không phận tiếp tục tăng lên. Theo tôi, có hai diễn biến chính : Thứ nhất là về tần suất. Với tư cách là một nhà báo ở Đài Loan, mỗi ngày chúng tôi đều nhận được thông cáo của bộ Quốc Phòng cùng với bản đồ đường đi của chiến đấu cơ Trung Quốc quanh Đài Loan. Số lượng các vụ xâm nhập trung bình cũng tăng lên, trung bình mỗi ngày có 5 vụ xâm nhập của máy bay Trung Quốc kể từ đầu năm.
Điểm khác biệt thứ hai là quỹ đạo và loại máy bay Trung Quốc điều đến cửa không phận Đài Loan. Người ta nhận thấy máy bay Trung Quốc thường xuyên vượt quá đường trung tuyến, đường ranh giới ảo phân cách giữa một bên là đảo Đài Loan và bên kia là các bờ biển Trung Quốc, hoặc thậm chí đi qua hẳn phía đông của đảo Đài Loan.
Xin nói rõ là Đài Loan nằm ở phía đông bờ biển Trung Quốc, và cho đến lúc này máy bay Trung Quốc chỉ hoạt động ở phía tây đảo Đài Loan, và giờ thì họ thực sự bay qua cả phía đông Đài Loan đôi khi với một quỹ đạo theo kiểu bao vây. »
Chiếm Đài Loan : Viễn cảnh còn xa ?
Trong bối cảnh này, cuộc bầu cử sẽ được tổ chức, với một cuộc đua gay gắt giữa ba ứng viên : Lại Thanh Đức (Lai Ching-te) của đảng Dân Tiến (DPP) – đảng chính trị của bà Thái Anh Văn, hiện đang dẫn đầu các thăm dò ; Hầu Hữu Nghi của Quốc Dân Đảng (KMT) và Triệu Thiểu Khang (Jaw Shaw Kong) thuộc đảng Nhân dân Đài Loan (NPP).
Phe đối lập vốn dĩ nhấn mạnh đến sự tiết chế trong các chính sách chống Trung Quốc, kêu gọi người dân chọn lựa giữa « chiến tranh và hòa bình », một khẩu hiệu đã được đảng Cộng sản Trung Quốc sử dụng lại trong các luận điệu tuyên truyền. Trong khi đó, đảng Dân Tiến của bà Thái Anh Văn đặt các cử tri trước thách thức « dân chủ và chuyên chế ». Phe đối lập cho rằng thắng lợi của DPP còn đồng nghĩa với việc căng thẳng tiếp tục gia tăng.
Nhưng giới chuyên gia dường như có chung một nhận xét, ít có khả năng Trung Quốc tiến hành thành công xâm chiếm Đài Loan. Tổng thư ký Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Đài Loan Cố Lập Hùng (Wellington Koo) hồi tháng 11/2023 tỏ ra nghi ngờ Trung Quốc có thể phát triển khả năng đổ bộ vào năm 2027 theo như cảnh báo từ đô đốc Philip Davidson, cựu chỉ huy Bộ Tư Lệnh Ấn Độ - Thái Bình Dương của Mỹ.
Bắc Kinh rõ ràng mong muốn một thắng lợi của Quốc Dân Đảng, nhưng có lẽ rút kinh nghiệm từ những sai lầm trong những năm 1995 – 1996, khi các vụ thử tên lửa hiếu chiến ở eo biển Đài Loan trước cuộc bầu cử đã làm gia tăng sự ủng hộ của cử tri cho chính phủ đảng Dân Tiến đầu tiên trên đảo. Thế nên, trong tháng 11 vừa qua, Bắc Kinh đã bắt đầu giảm các hoạt động quân sự.
Nếu nhìn từ góc độ này, việc xâm chiếm Đài Loan có vẻ đầy rủi ro. Thế nhưng, tướng Charles Brown, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ gần đây từng nghĩ rằng Tập Cận Bình không thực sự muốn đánh chiếm Đài Loan bằng vũ lực. Bắc Kinh có khả năng « sử dụng những cách khác để làm điều này ».
Chiến lược của Trung Quốc
Hai nhà nghiên cứu Thiếu Ngọc Nguyên (Shaoyu Yuan) và Quân Tương (Jun Xiang)3, trên trang mạng The Diplomat (02/12/2023) khẳng định Trung Quốc có thể dựa vào nhiều biện pháp phi quân sự, nhẹ nhàng hơn để tác động đến số phận hòn đảo, khi dần tìm cách tước đi quyền tự trị của Đài Loan khi phân tích ba chiến lược tiềm năng của Trung Quốc.
Điểm thứ nhất là tiến hành chiến tranh tâm lý nhằm thao túng công luận, tác động đến sự lựa chọn của cử tri trong cuộc bầu cử sắp tới. Tiếp đến là cưỡng ép kinh tế gây khó khăn cho Đài Loan tiếp cận các nền thị trường hoặc nguyên liệu thô quan trọng, buộc hòn đảo trả giá đắt về mặt kinh tế cho sự kháng cự và phải có những nhượng bộ chính trị. Và sau cùng là cô lập ngoại giao, gây khó khăn cho Đài Bắc trong việc đàm phán các thỏa thuận quốc tế, tham gia các diễn đàn toàn cầu hay đảm bảo quan hệ đối tác chiến lược, đồng thời gây áp lực buộc Đài Loan phải cân nhắc thống nhất với Hoa Lục theo điều khoản có lợi cho Bắc Kinh.
Về điểm này, thông tín viên đài RFI tại Đài Bắc Adrien Simorre nhắc lại một số vụ việc :
« Từ góc độ kinh tế, Trung Quốc đã cấm nhập khẩu một số sản phẩm nông nghiệp của Đài Loan trong những năm gần đây và tại một số vùng nông nghiệp của Đài Loan, gần như 100% sản lượng, chẳng hạn như một số loại trái cây được xuất sang sang thị trường Trung Quốc. Vì vậy, đây là một đòn giáng rất đau, gây khó khăn cho nông dân.
Ngoài ra, còn có chiến tranh tâm lý hoặc thông tin với việc đưa tin giả, các cuộc tấn công mạng, ví dụ như màn hình của một nhà ga ở Đài Loan hồi năm 2022 đã bị tấn công để phát sóng tuyên truyền của Trung Quốc. Hoặc như tại một hòn đảo nằm gần Trung Quốc hơn, dây cáp điện đã bị cắt và do đó người dân không có điện trong vài ngày và Đài Loan nghi ngờ Trung Quốc đứng sau hành động phá hoại này.
Ở cấp độ địa chính trị, Trung Quốc tiến hành gây áp lực to lớn nhằm cô lập Đài Loan. Ngay khi cờ Đài Loan xuất hiện trong một sự kiện quốc tế, Bắc Kinh yêu cầu ban tổ chức xóa bỏ hoàn toàn tất cả các biểu tượng của Đài Loan. Những điều này khiến một số người Đài Loan nói rằng chiến tranh trên thực tế đã bắt đầu từ đâu đó, ngay cả khi tất nhiên hiện tại không có xung đột ở cấp độ quân sự. »
Dù vậy, nhiều nhà phân tích nhận định, bất kể là Quốc Dân Đảng hay đảng Dân Tiến giành thắng lợi thì vẫn sẽ có căng thẳng đáng kể trong khu vực và giữa đôi bờ eo biển. Thông tín viên đài RFI ở Đài Bắc giải thích tiếp :
« Trên thực tế, nhiều nhà quan sát thắc mắc giả như đảng đối lập thắng cử lần này thì có thực sự giúp giảm bớt căng thẳng hay không, bởi vì trên thực tế, dù đảng này ủng hộ việc nối lại quan hệ nhưng vẫn phản đối việc sáp nhập với Hoa Lục, và đây rõ ràng là mục tiêu của Trung Quốc.
Ông Tập Cận Bình nhắc lại rằng "chúng ta không được để lại gánh nặng cho thế hệ sau" nên trên thực tế, ngay cả khi đảng này chủ trương nối lại quan hệ với Bắc Kinh thì vẫn ủng hộ việc tăng cường phòng thủ Đài Loan và mối quan hệ tốt đẹp với Hoa Kỳ. Thực ra, tôi nghĩ rằng, ở Đài Loan nói chung, sau sự kiện Ukraina, thực sự không ai dám nói chắc chắn rằng Trung Quốc sẽ không ra tay. »
Hơn nữa, theo quan điểm của ông Christian Le Miere, Mỹ vẫn kiên quyết tăng cường khả năng phòng thủ cho Đài Loan và phát triển khả năng răn đe tổng hợp toàn diện trên khắp vùng Đông Á. Điều nghịch lý là người dân Đài Loan có thể không muốn xung đột nhưng họ ngày càng rời xa với khả năng thống nhất hòa bình, ít nhất là trong cuộc bầu cử lần này.
Do vậy, theo vị chuyên gia về chính sách đối ngoại người Anh này, bóng ma của một cuộc xâm lược quân sự vẫn sẽ còn. Bắc Kinh có thể đánh giá một chiến dịch chiếm đánh là không khả thi nhưng có thể dễ dàng gia tăng áp lực thông qua các biện pháp quân sự khác. Ngoài việc tăng cường các hoạt động tấn công vùng xám như tường thuật ở trên, thì Trung Quốc vẫn có thể tranh chấp đổ bộ lên các đảo ngoài khơi của Đài Loan trong vùng eo biển và ở Biển Đông, một chiến dịch như thế sẽ ít tốn kém hơn và có nhiều khả năng dẫn đến thành công hơn cho Trung Quốc.
Tóm lại, theo nhiều nhà phân tích, cuộc đấu tranh của người dân Đài Loan không chỉ giới hạn trên chiến trường, mà đó còn là một cuộc chiến cân não, trên thị trường và trong các phòng họp.
(Theo The Straits Times, The Diplomat)
**********
Ghi chú :
1. Christian Le Miere, cố vấn chính sách đối ngoại, đồng thời là nhà sáng lập và chủ tịch Arcipel, một công ty tư vấn chiến lược có trụ sở tại Luân Đôn – Báo mạng The Straits Times ngày 09/12/2023
2. Kết quả cuộc thăm dò do trường đại học Quốc gia Chengchi (NCCU), Đài Loan, thực hiện – Trang mạng The Diplomat ngày 01/12/2023.
3. Thiếu Ngọc Nguyên (Shaoyu Yuan) và Quân Tương (Jun Xiang), là nhà nghiên cứu và giáo sư thuộc Khoa Các Vấn đề Toàn cầu, trường đại học Rutgers, bang New Jersey tại Mỹ.
Thu, 14 Dec 2023 - 78 - Pháp: Tầm ảnh hưởng toàn cầu đang trên đà suy giảm?
Với diện tích 550 ngàn km², Pháp – quốc gia rộng lớn nhất trong Liên Hiệp Châu Âu – là nền kinh tế thứ ba tại châu lục và đứng hàng thứ 7 trên thế giới. Nhờ vào một nền công nghiệp quốc phòng tiên tiến, Pháp được xếp là cường quốc quân sự thứ 8 trên toàn cầu. Dù vậy, cũng giống như cảm nhận của hai phần ba người dân Pháp, giới quan sát có chung nhận xét : Pháp không còn là một đại cường và tầm ảnh hưởng của Pháp trên trường quốc tế đang đà suy giảm.
Pháp: Cường quốc được lắng nghe nhưng không được trông đợi
Từ những năm 2000, có một câu hỏi luôn được đặt ra : Pháp có còn là một cường quốc hay không ? Câu trả lời vẫn là « Có », nước Pháp vẫn là một cường quốc quan trọng nhờ ít nhất vào ba lá chủ bài : Một ghế thành viên thường trực trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, một vị trí trong câu lạc bộ các cường quốc hạt nhân và một mạng lưới ngoại giao rộng lớn được cho là đứng hàng thứ ba trên thế giới, chỉ sau Mỹ và Trung Quốc.
Ngoài ra, nước Pháp có thể trông cậy vào ngôn ngữ Pháp, sắp tới sẽ được hơn 300 triệu người sử dụng ; sự hiện diện đông đảo của Pháp tại nhiều định chế quốc tế ; một vai trò quan trọng trong khối Liên minh Quân sự Bắc Đại Tây Dương – NATO và Liên Hiệp Châu Âu cũng như là một hình ảnh tích cực để thu hút đầu tư và du lịch bất chấp một số bất ổn xã hội gần đây.
Tuy nhiên, nhà báo và cũng là tác giả, Richard Werly, thông tín viên báo « Blick » tại Paris trên kênh truyền hình RTS của Thụy Sĩ ngày 10/11/2023 đánh giá những lợi thế này cũng chưa đủ để nước Pháp ngày nay được « lắng nghe và trông đợi » như dưới thời tướng De Gaulle, thời tổng thống François Mitterand hay Jacques Chirac.
Bởi vì, những lá chủ bài đó của Pháp đâu phải là những điều « bất di bất dịch », như lưu ý của chuyên gia Frédéric Charillon, giáo sư ngành Khoa học Chính trị trường đại học Clermont – Auvergne trên tạp chí Diplomatie số ra tháng 8-9/2023.
Bản thân các định chế Liên Hiệp Quốc cũng đang bị chỉ trích là lỗi thời và ngày càng có nhiều lời kêu gọi cải tổ. Vũ khí hạt nhân thì khó sử dụng tại các nền dân chủ. Thế mạnh kinh tế của Pháp, tuy vẫn nằm trong tốp hàng đầu nhưng đã bị nhiều nước phương Nam khác qua mặt.
Ngôn ngữ Pháp dù được sử dụng rộng rãi nhưng bị rút xuống như là một thứ ngôn ngữ làm việc trong các định chế quốc tế, trong nội bộ Liên Hiệp Châu Âu cũng như ở một số nước Bắc Phi, trong khi các hệ thống giáo dục nổi tiếng của Pháp ở nước ngoài bị cạnh tranh gay gắt từ nhiều nước châu Âu khác.
Trong lòng khối NATO và Liên Hiệp Châu Âu, Pháp phải quan tâm đến việc có nhiều đối tác không chấp nhận thế trội và sẵn sàng đối đầu trực diện, chống đối tầm nhìn chính trị của Paris.
Châu Phi: « Sân sau » đã mất !
Cũng theo ông Frédéric Charillon, bất chấp các nỗ lực không ngừng từ thời tướng De Gaulle, Pháp vẫn luôn gặp khó khăn trong việc mở rộng ảnh hưởng tại nhiều vùng giờ được cho là những vùng « tâm điểm chiến lược tương lai » như Nam Mỹ, Đông Nam Á, Trung Á và Nam Á…
Nhưng có lẽ ấn tượng nhất là tại châu Phi. Ở những nước thuộc địa cũ, tầm ảnh hưởng của Pháp đã bị giảm mạnh đến thê thảm. Mười năm sau chiến dịch quân sự ở Mali và nước Pháp được chào đón như là một anh hùng năm 2013, Paris giờ phải lần lượt thoái lui ra khỏi sáu nước, từng được xem như là « sân sau » của Pháp sau một loạt các cuộc đảo chính quân sự và làn sóng « bài Pháp » : Mali (2020), Tchad (2021), Guinea (2021) ; Burkina Faso (2022), Niger (2023) và Gabon (2023).
Trong bối cảnh này, Paris buộc phải điều chỉnh chính sách đối với châu Phi. Tại Rwanda, sau nhiều năm căng thẳng bang giao do có liên quan đến nạn diệt chủng năm 1994, nguyên thủ Pháp có lời xin lỗi. Trên bình diện văn hóa, Paris thông qua đạo luật trao trả lại nhiều cổ vật nghệ thuật. Về kinh tế, tổng thống Macron thông báo chấm dứt đồng franc CFA – vết tích sau cùng thời thuộc địa của Pháp trong khu vực.
Làm thế nào giải thích cho sự suy giảm mạnh mẽ ảnh hưởng của Pháp tại châu lục ? Ngoài yếu tố quá khứ thực dân, nhà địa chính trị Niagalé Bagayoko, chủ tịch African Security Sector Network, trên trang mạng của Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược (IRIS) đưa ra một số nguyên nhân khác :
« Trước hết có một sự tự phụ, một tham vọng quá lớn trong việc tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố mà người dân thực sự tin tưởng. Pháp tuyên bố sẽ loại bỏ, vô hiệu hóa và tiêu diệt hoàn toàn những kẻ khủng bố, và dư luận đã không nghi ngờ gì về khả năng thực hiện của Pháp. Tuy nhiên, sau hai mươi năm, chúng ta thấy rõ là các đối tác quốc tế đã không thể vượt qua cuộc xung đột này ở bất kỳ chiến trường nào.
Do vậy, sự tín nhiệm dành cho Pháp lúc ban đầu cũng vì thế đã gây ra hoài nghi và nỗi tức giận ngày càng lớn trước sự hiện diện được cho là vô ích. Và theo công luận châu Phi, yếu tố thứ hai đi kèm theo, là thái độ ngạo mạn, lối gia trưởng khinh thường của Pháp khi đối diện với các nhà lãnh đạo và công luận tại chỗ (…)
Rồi cách thức xử lý khủng hoảng khi không đếm xỉa đến sự khác biệt trong phân tích chiến lược, nhất là với các nước trong vùng Sahel đã giải thích phần nào thất bại của Pháp mà chúng ta thấy rõ trong thực tế bất chấp những phủ nhận.
Chẳng hạn việc ngoại trưởng Pháp thời đó là ông Jean Yves Le Drian phản đối thủ tướng Mali phủ quyết mọi cuộc đàm phán với các nhóm khủng bố cho thấy các sai lầm trong việc chọn lựa các giải pháp của Paris. Hay như trong cuộc xung đột giữa Bamako và phe ly khai ở miền Bắc Mali, cách thức Pháp hậu thuẫn cho nhóm vũ trang Touareg đã bị dư luận Mali coi như là một hành động phản bội ».
Trung Đông: Hình ảnh bị lu mờ
Ở Trung Đông, tại những nước có các mối liên hệ truyền thống, địa lý, và văn hóa sâu rộng bắt nguồn từ những mối liên minh xưa cũ như Syria, Libya hay Liban, Pháp cũng đã bị mất ảnh hưởng, trong khi dưới thời tổng thống Jacques Chirac, Paris lại là một đối tác không thể thiếu ở khu vực.
Triển vọng mở rộng ảnh hưởng trong vùng giờ dịch chuyển về phía các cường quốc trong Vùng Vịnh. Tổng thống Emmanuel Macron là nguyên thủ đầu tiên tiếp đón hoàng thái tử Mohammed Ben Salmane của Ả Rập xê Út sau vụ sát hại nhà báo Jamal Khashoggi. Với Qatar, Paris ký kết một nghị định thư hợp tác, nhưng chính tại Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Pháp có một căn cứ quân sự từ năm 2009.
Nhà báo Richard Werly, trên kênh truyền hình RTS nhắc lại dưới thời tổng thống Jacques Chirac, nước Pháp đã để lại hai hình ảnh, hai quyết định ấn tượng : Thứ nhất là nói « KHÔNG » với cuộc can thiệp quân sự của Mỹ ở Irak qua bài phát biểu của ông Dominique Villepin tại Liên Hiệp Quốc năm 2003 và thứ hai là hình ảnh ông J. Chirac gạt đoàn hộ tống của Israel để nói chuyện với người dân Palestine ở vùng Đông Jerusalem.
« Ở ông Chirac có một dạng bất đồng chính kiến theo kiểu tướng De Gaulle. Giờ hình thức này còn lại rất ít, đã bị ông Nicolas Sarkozy xóa nhòa đi rất nhiều. Quyết định gia nhập NATO đã đồng nghĩa với việc từ bỏ một phần học thuyết của tướng De Gaulle. Còn tổng thống François Hollande thì vất vả tồn tại trên trường quốc tế. Giờ đến lượt Emmanuel Macron đang nỗ lực "chèo lái" để khôi phục sức mạnh này.
Tuy nhiên, thế giới đã thay đổi. Khối phương Nam toàn cầu đòi hỏi khắt khe hơn trước và cuộc chiến tranh tại Ukraina đang tạo ra trước mặt chúng ta một "trục" khác bao gồm Nga, Trung Quốc và nhiều nước khác nữa ».
Khủng hoảng "AUKUS": Vố đau cho công nghiệp quốc phòng
Lãnh vực công nghiệp quốc phòng – chiếc đòn bẩy quan trọng không thể thiếu của Pháp trong đối ngoại – cũng « năm chìm bảy nổi » trong cuộc tranh giành ảnh hưởng khốc liệt, trước một thế giới đã bị phân mảnh và xuất hiện nhiều cường quốc bậc trung, cũng đang đòi hỏi một vị trí trong bàn cờ địa chính trị.
Dù vậy, theo thống kê, Pháp là nước xuất khẩu vũ khí thứ ba trên thế giới (chiếm 11% thị phần toàn cầu), chỉ sau Nga (16%) và thua xa Mỹ (40%). Những khách hàng lớn của Paris trong năm 2022 là Ấn Độ, Qatar, Brazil, Ai Cập và Hy Lạp.
Tuy nhiên, trong năm 2021, chỉ trong vòng có vài tháng, nước Pháp liên tiếp đón nhận hai vố đau : Thụy Sĩ quyết định chọn mua F-35 của Mỹ trong khi các cuộc thương lượng về Rafale của Pháp được cho là có những tiến triển tốt và nhất là, Úc bất ngờ thông báo hủy hợp đồng mua 12 chiếc tầu ngầm của tập đoàn Naval Group của Pháp và thay vào đó là tầu ngầm hạt nhân của Anh – Mỹ.
Cuộc khủng hoảng này xảy ra vào thời điểm tế nhị, Pháp đặt các vùng lãnh thổ hải ngoại vào trọng tâm chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương mà Ấn Độ là một đối tác quan trọng hàng đầu đối với Pháp. Theo đánh giá từ nhà báo Richard Werly, cuộc khủng hoảng này đã để lại một tác động không nhỏ cho ngành công nghiệp quốc phòng Pháp, một mặt cho phép nước này tự chủ về an ninh quốc phòng, nhưng mặt khác lại là một công cụ ngoại giao hữu ích.
« Đây là một sự sỉ nhục. Về mặt hợp đồng kinh doanh, quý vị đã ký cam kết bán 12 chiếc tàu ngầm, và hơn nữa, đó là một hợp đồng rất lớn, và đột nhiên, không hề báo trước, hợp đồng này bị một quốc gia là Úc từ bỏ khi cùng lúc ký một hợp đồng khác với Mỹ, đồng minh của quý vị. Vì vậy, đó là một sự sỉ nhục. Pháp hoàn toàn đúng khi bày tỏ bất bình với Joe Biden. Và ngay sau đó Emmanuel Macron có chuyến thăm cấp nhà nước trên thảm đỏ ở Washington.
Về mặt đánh giá chiến lược, Úc cho rằng thế phòng thủ hải quân thủ tốt nhất trước Trung Quốc là các tàu ngầm hạt nhân của Mỹ. Điều đó có thể hiểu được, việc xem xét lại chiến lược của Úc là có thể hiểu được. Tôi nghĩ người Pháp cũng hiểu điều đó. Do vậy, họ đã thương lượng mức bồi thường 500 triệu euro, con số này không hề nhỏ.
Nhưng thực sự, nó giống như một sự sỉ nhục cho thế mạnh của Pháp, đó là một tín hiệu rất xấu. Kể từ đó, E. Macron đã cố gắng lấy lại vị thế này. »
Nhìn từ toàn cảnh này, giới quan sát nhận định việc tổng thống Pháp Emmanuel Macron muốn có một nước Pháp hùng mạnh và được lắng nghe sẽ là một nhiệm vụ đầy khó khăn. Để trở thành một cường quốc, không chỉ có thế mạnh quân sự mà còn phải có cả các phương tiện kinh tế để thúc đẩy những hồ sơ mà Pháp muốn mở rộng ảnh hưởng. Nhưng rủi thay những công cụ kinh tế này Pháp không còn nữa trong khi mà món nợ khổng lồ hơn 3.000 tỷ euro đang treo lơ lửng đe dọa đến nền kinh tế - xã hội tại xứ sở có hình lục lăng này !
Thu, 07 Dec 2023 - 77 - Biển Baltic và những thách thức chiến lược cho Nga
Cuộc chiến kéo dài tại Ukraina đã dẫn đến việc tái cấu trúc địa chính trị triệt để tại vùng biển Baltic, cũng như những biến đổi sâu sắc về thế cân bằng quân sự giữa Nga và NATO. Tại vùng biển này, Nga đã bị mất thế mạnh và năng lực đe dọa các nước láng giềng với việc triển khai sức mạnh quân sự. Trên đây là một trong số các nhận định của nhà nghiên cứu địa chính trị Pavel Baev, Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo.
Biển Baltic là vùng biển rìa lục địa nằm ở Bắc Âu. Với diện tích rộng 364.800 km², nhỏ hơn Địa Trung Hải đến sáu lần, biển Baltic xếp hạng thứ 40 thế giới về diện tích các vùng biển trên thế giới. Xét trên phương diện này, rõ ràng biển Baltic có một tầm quan trọng khá khiêm tốn.
Từ « ao nhà » Đức, Liên Xô đến « ao nhà » NATO
Tuy nhiên, vùng biển « chật hẹp, khép kín » này, với một lối ra duy nhất là eo biển Skagerrak để đi ra biển Bắc và được bao bọc bởi chín quốc gia là Thụy Điển, Phần Lan, Nga, Estonia, Latvia, Litva, Ba Lan, Đức và Đan Mạch, cho thấy đây là khu vực có những mối liên lạc, các lợi ích cốt lõi và tham vọng chồng chéo.
Chuyên gia địa chính trị Fabrice Ravel, trong chuyên mục « Rendez-vous de la Geopolitique » (Điểm hẹn địa chính trị), do ESCE – International Business School thực hiện, khi nhắc lại từng giai đoạn lịch sử, đã chỉ ra rằng vùng biển Baltic còn là một chỉ dấu cho thấy cường quốc thống trị trong khu vực:.
« Từ ngày 18/01/1871 cho đến ngày 11/11/1918, dưới thời đế chế Đức, người ta thấy rõ là đế chế Đức đã thiết lập toàn bộ thế thống trị của mình, nhất là ở phần phía nam của biển Baltic, đi từ Schleswig – Holstein, qua vùng Poméranie, rồi chúng ta có Tây Phổ và Đông Phổ. Do vậy, biển Baltic thời đó hoàn toàn là "ao nhà" của Đức.
Rồi trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến, mà thông qua việc tái cấu trúc, đã có những tranh giành lẫn nhau về quyền lãnh đạo. Nhưng từ năm 1945, biển Baltic là "ao nhà" của Liên Xô. Bởi vì người ta thấy rõ là điều quan trọng đối với ông Stalin thời đó là đòi lấy vùng Kaliningrad.
Bởi vì, trên thực tế, tại vịnh Phần Lan, nước biển bị đóng băng. Thế nên, điều chắc chắn đối với Nga là phải có được lối ra các vùng biển nước ấm 12 tháng trong năm. Vì vậy, khi kéo dài Hiệp ước Vacxava với Ba Lan và Cộng hòa Dân chủ Đức, Liên Xô đã có thể mở rộng thế mạnh của mình tại Ba Lan và Đông Đức. Và trên thực tế, biển Baltic đã trở thành "ao nhà" của Liên Xô. Xin nhắc lại là nước Đức thời đó đã bị cắt làm hai trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh sau Đệ Nhị Thế Chiến.
Rồi tình hình sau đó lại thay đổi, với sự sụp đổ của Bức tường Berlin, Chiến tranh lạnh kết thúc, Ba Lan gia nhập NATO năm 1999 và các nước vùng Baltic vào NATO năm 2004, "ao nhà" thuộc về NATO. »
Những ưu tiên chiến lược và hạn chế của Nga
Cho đến trước khi xảy ra cuộc chiến xâm lược Ukraina, biển Baltic vẫn luôn là một điểm nóng, một trục tương tác giữa Nga và phương Tây, cụ thể là NATO. Nhưng chiến dịch sáp nhập chớp nhoáng bán đảo Crimee của Matxcơva năm 2014 đã thật sự gây sốc cho giới quân sự phương Tây, khi chợt nhận ra thế yếu của mình trên mặt trận Baltic.
Phân tích lại một cách kỹ lưỡng các cuộc tập trận chiến lược Zapad-2013 vào tháng 9/2013, các cuộc tập trận không quân của Nga tháng 4/2013, NATO phát hiện là có thể mất ba đồng minh Baltic Estonia, Latvia và Litva chỉ trong vòng 60 giờ nếu Nga chiếm được hành lang Suwalki, nằm giữa Ba Lan và Litva, nhưng nối thành phố Kaliningrad của Nga với Belarus, một đồng minh của Matxcơva. Còn Thụy Điển có thể sẽ phải điều động một đội quân đồn trú mới có thể bảo vệ quần đảo Gotland, trước một cuộc đổ bộ của Nga từ Kaliningrad cách đấy tầm 350 km, theo một mô hình giả định.
Tuy nhiên, theo giáo sư Pavel Baev, chuyên gia địa chính trị thuộc Viện Nghiên cứu Hòa bình ở Oslo, nếu như ông nhìn nhận một chiến dịch tấn công quy mô lớn tại mặt trận Baltic chưa bao giờ là một phần trong số các tham vọng chính trị, hay như là ý định chiến lược của Nga trong suốt nửa cuối thập niên 2010, thì mặt trận này dường như đang bị Nga « bỏ rơi », và có khả năng làm suy yếu vị thế chiến lược vùng lãnh thổ Kaliningrad.
Ông viết : « Phần lớn ưu tiên chiến lược của Nga là dành cho Bắc Cực khi cho tăng cường mạnh mẽ hiện diện quân sự tại đây. Nga xem khu vực này như là một "trục chiến lược riêng biệt", khác hoàn toàn với mặt trận Baltic, không những trên phương diện địa lý (do triển vọng trở thành con đường hàng hải phía bắc), mà cả về mặt chiến lược. Khu vực này tập trung nhiều nguồn lực hạt nhân, chủ yếu ở bán đảo Kola. Tầm quan trọng của khu vực này còn được thể hiện rõ qua việc Nga chính thức cho thành lập Bộ tư lệnh chiến lược hỗn hợp mới cho hạm đội Biển Bắc và cấp cho bộ chỉ huy này quy chế huyện quân sự vào tháng Giêng năm 2021.
Cuộc chiến xâm lược Ukraina luôn là ưu tiên tuyệt đối trong kế hoạch và chuẩn bị quân sự, bao gồm cả những nỗ lực to lớn tái thiết cơ sở hạ tầng quân sự tại bán đảo Crimee, cũng như việc triển khai nhiều đơn vị và nguồn lực mới sang « pháo đài » này, được cho là để ngự trị Hắc Hải. »
Đọc thêm: Chiến tranh Ukraina: Kiểm soát toàn bộ Biển Đen, mục tiêu chính của tổng thống Nga PutinHệ quả là sự quan tâm chính trị dành cho mặt trận Baltic ngày càng ít dần. Hạm đội Baltic, từng đóng một vai trò chủ chốt trong các cuộc diễu binh hải quân (một nghi thức mới được tổng thống Vladimir Putin ban hành vào năm 2017), nay chỉ còn lại vài chiếc tầu hộ tống phóng tên lửa. Một trong những điểm yếu chiến lược khiến nhiều chỉ huy cao cấp của Nga lo lắng là thành phố Kaliningrad. Khu vực này từng được bổ sung nhiều đơn vị và nhiều trang thiết bị mới. Nhiều cơ sở hạ tầng đã được hiện đại hóa, đặc biệt là cho việc cất trữ đầu đạn hạt nhân.
Chiến tranh Ukraina và những hệ lụy
Chỉ có điều, khi phát động cuộc chiến xâm lược Ukraina, những đội quân quy ước cho phép Nga tiếp cận một loạt các giải pháp tấn công trên mặt trận Baltic, đã dần bị hao mòn. Ba trong số bốn tầu đổ bộ loại lớn đã được chuyển sang Hắc Hải. Nhiều lữ đoàn thiện chiến trú đóng ở Kaliningrad bị Nga rút đi và điều sang chiến trường Ukraina đã bị tàn sát.
Theo đánh giá của ông Pavel Baev, « mục tiêu chiến lược biến Kaliningrad thành một "thành trì" được vũ trang kiên cố để có thể thống trị phần trung tâm vùng biển Baltic trên thực tế đã bị từ bỏ, đặt dấu chấm hết cho những cuộc tranh luận thường xuyên gay gắt ở phương Tây. Thành công của đợt tấn công bằng tên lửa và drone hải quân của Ukraina nhắm vào các cơ sở quân sự ở bán đảo Crimée đã chứng tỏ rằng quân đội Nga vẫn chưa thể bảo đảm được tính liên tác chiến hiệu quả giữa các hệ thống vũ khí phòng thủ địa đối không và bờ biển khác nhau, cần thiết để mô hình chiến lược chống xâm nhập/chống tiếp cận – A2/AD hoạt động hiệu quả. »
Không những thế, kế hoạch bổ sung tầu chiến có trang bị tên lửa cho hạm đội Baltic bị trì hoãn. Chương trình lắp ráp một loạt tầu hộ tống tàng hình mới đã bị từ bỏ. Các dữ liệu về tái bố trí không quân Nga trở nên ít hẳn trong khi các chiến dịch xâm nhập không phận Phần Lan và ba nước Baltic theo mô hình đánh chặn hầu như không còn nữa. Nhìn chung, đội quân đồn trú cho « pháo đài Kaliningrad » đã bị cắt giảm rất nhiều và khả năng bảo đảm an toàn cho chuỗi cung ứng cung bị biến mất, nhưng bộ chỉ huy cao cấp Nga vẫn ít quan tâm đến lỗ hổng chiến lược sâu rộng này.
Những động thái trên không những đã làm thay đổi sâu sắc cơ cấu chiến lược của Nga theo một nghĩa tiêu cực ở mặt trận Baltic, bẻ gãy phần nào tính liên kết chiến lược giữa Kaliningrad với bán đảo Kola ở mặt trận phía bắc, trong khi năng lực quân sự của NATO không ngừng củng cố khi có thêm sự tham gia của Phần Lan và Thụy Điển.
Không thể đảo chiều !
Một điểm khác đáng chú ý trong bài phân tích dài của ông Pavel Baev, đó là việc bỏ lơ mặt trận Baltic, đặc biệt là Kaliningrad, đe dọa đáng kể đến an ninh của đồng minh Belarus.
Ông viết : « Quân đội Nga và Belarus thường xuyên áp dụng nguyên tắc tính liên tác chiến, nhất là trong cuộc tập trận Zapad-2021, nhưng hiện nay các lực lượng hàng không – không gian của Nga là bên chủ yếu sử dụng các căn cứ không quân của Belarus để tiến hành các chiến dịch chống Ukraina, trong khi các đội quân trên bộ tiếp tục sử dụng một lượng lớn đạn dược từ trong kho vũ khí của Belarus. Ông Lukashenko theo dõi sát diễn biến cuộc chiến tại Ukraina với đầy nỗi lo lắng, cho rằng ông Putin có lẽ sẽ không có đủ quân có sẵn để triển khai nếu như những bất ổn dân sự - mà hai nhà độc tài diễn giải như là một chiến dịch "hỗn hợp" của NATO - lại nổ ra như vào mùa hè 2020 ».
Nỗi lo này của tổng thống Belarus phần nào đã được xác nhận. Bộ trưởng Quốc Phòng Nga Serguei Choigu, khi chỉ còn hai tuần nữa là diễn ra cuộc tập trận chiến lược Zapad 2023 trong tháng 9/2023, đã thông báo hủy chiến dịch quân sự.
Trong bối cảnh này, giới chiến lược gia Nga nhìn nhận, khối liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương không những đã hùng mạnh hơn bao giờ hết trong ba thập niên gần đây. Trong nhãn quan của họ, NATO là một liên minh quân sự hung hăng có mục tiêu tấn công hơn là phòng thủ, cấu thành một mối đe dọa quân sự trực tiếp cho Nga. Kết luận tất yếu của những phân tích cứng rắn này là cường độ mối đe dọa quân sự quy ước cũng như là đe dọa « hỗn hợp » không thuần nhất và được hiện đại hóa đã gia tăng đáng kể ở sườn tây bắc, trong khi mà năng lực đáp trả đã suy giảm.
Nếu như phương Tây xem những thay đổi này chỉ mang tính giả tạo và nhất thời, thì tại Matxcơva, chúng được cảm nhận như là một điều không thể chấp nhận và không thể đảo chiều !
Thu, 30 Nov 2023 - 76 - COP28 trong nhãn quan giáo hoàng Phanxicô : Các tôn giáo cùng bảo vệ mái nhà chung
Tối 01/11/2023, Đức giáo hoàng Phanxicô đã trả lời phỏng vấn trực tiếp trên kênh truyền hình TG24 của Ý, nói đến việc ngài sẽ đi dự Hội nghị Khí hậu toàn cầu COP28 ở Dubai. Phòng báo chí Tòa Thánh Vatican đã xác nhận và trình bày chương trình của chuyến đi của Đức Phanxicô đến thủ đô Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất từ 30/11 – 02/12. Tại đây, ngài sẽ có bài phát biểutrước hội nghị quy tụ các nguyên thủ quốc gia nhằm bàn đến những vấn đề môi trường của thế giới.
Tại sao Đức giáo hoàng Phanxicô, người đứng đầu một trong những tôn giáo lớn nhất trên thế giới, với giáo lý đặt con người làm trung tâm và làm chủ vũ trụ, lại quan tâm đến vấn đề môi trường như vậy ? Linh mục Phạm Hoàng Dũng nhận định từ Liège, Bỉ.
Mối tương quan giữa con người và vũ trụ
Giáo lý Công giáo nói gì về mối tương quan giữa con người và vũ trụ ? Trước tiên, giáo lý này đặt nền tảng trên việc hiểu thế nào về đoạn trích từ sách Sáng Thế, cuốn sách đầu tiên trong bộ Kinh Thánh. Đoạn trích nói về việc Thiên Chúa tạo dựng nên và chúc phúc lành cho con người: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất”.
Vậy ta hiểu thế nào về câu kinh thánh này? Trong giáo lý của Công giáo, Sách Thánh được viết ra dưới sự linh hứng của Thiên Chúa, chứ không phải do sự sáng tác của con người. Mặt khác, các sách thánh lại được viết ra bằng ngôn ngữ và trong bối cảnh của một địa phương, ở đây là Israel. Chưa kể sau đó lại được dịch ra các thứ tiếng khác, như đây là bản dịch tiếng Việt và có bao nhiêu bản dịch tiếng Việt lại là vấn đề.
Nhưng chúng ta không bàn về vấn đề dịch thuật ở đây. Đối với việc hiểu một bản văn Kinh thánh, phải có sự soi xét theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, chứ không theo tự do cá nhân người đọc. Và việc đào sâu ba tầng ý nghĩa của bản văn, từ nghĩa theo mặt chữ tới nghĩa đen và nghĩa luân lý của bản văn.
Đề cập dài dòng về mặt kỹ thuật ở đây nhằm mục đích cho thấy từ lâu trong Giáo hội đã có sự hiểu chưa sâu với việc đặt con người làm trung tâm hay lên trên công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Điều này được Đức Phanxicô xác nhận và đặt lại trong tông huấn Laudate Deum (Chúng ta hãy ngợi ca Thiên Chúa), trong đó ngài tái khẳng định sự cấp bách trong vấn đề môi trường.
Phải chăng Đức Phanxicô quan tâm đến vấn đề môi trường hơn các vấn đề về đạo lý khác ?
Từ ngày lên kế vị Đức Benedict XVI, Đức Phanxicô đã viết hai tông huấn (Laudato Si’, 2016 và Laudato Deum 2023) và triệu tập một Thượng hội Đồng các giám mục vùng Amazon 2019, mà chủ đề chính xoay quanh các vấn đề về môi trường. Trước đó, chưa có vị giáo hoàng nào làm như vậy.
Đức Phanxicô là người đến từ vùng đất mà các vấn đề về đất đai, rừng cây, sông suối đụng chạm trực tiếp đến con người. Nhất là những người nghèo, những người phải bỏ sức và chính mạng sống để khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên như chặt phá rừng Amazon hay khai thác quặng mỏ, nhưng chính họ lại phải sống bên lề xã hội trong những khu ổ chuột, những khu bình dân bên cạnh những trung tâm công nghiệp gây ô nhiễm. Hay những người dân sinh ra và lớn lên trên những vùng đất mà những chính sách được hoạch định bởi các nhà chính trị và các chủ doanh nghiệp khiến họ bị bứt rễ hay xua đuổi khỏi chính mảnh đất nơi họ được sinh ra và lớn lên.
Cứu thế giới từ dưới lên
Vào ngày 4 tháng 10 năm 2023, Đức giáo hoàng Phanxicô đã ban hành Tông huấn Laudate Deum (Chúng ta hãy ngợi ca Thiên Chúa ). Đây là phần tiếp theo của tông huấn Laudato si’ năm 2015, Đức Phanxicô một lần nữa kêu gọi tất cả những người có thiện chí cùng nhau hợp tác và gây áp lực lên các nhà lãnh đạo toàn cầu để giải quyết khủng hoảng khí hậu. Tông huấn này nhắc lại những lập luận đã được đưa ra trong tông huấn cách nay gần mười năm nhằm chứng minh rằng những lời tiên đoán được đưa ra gần một thập kỷ trước – theo nhiều cách khác nhau – đã được ứng nghiệm.
Trong Laudato si’, Đức Phanxicô nêu lên khái niệm “sinh thái toàn diện”. Để chúng ta, với tư cách cá nhân, có thể đánh giá đầy đủ mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng khí hậu. Ngài nói rằng trước tiên chúng ta phải trải qua một “sự hoán cải sinh thái” và nhận ra mối liên hệ qua lại giữa sự hưng thịnh của chính chúng ta và sự hưng thịnh của người khác : Cả con người và sinh vật. Như ngài viết trong Laudate Deum, không gì có thể chứng minh mức độ nghiêm trọng của sự thật này một cách mạnh mẽ hơn đại dịch Covid-19. Nó “khẳng định rằng những gì xảy ra ở một nơi trên thế giới sẽ gây ra hậu quả cho toàn bộ hành tinh”.
Trong Laudato si’, Đức Phanxicô đã đặt ra khái niệm “mô hình kỹ trị”, một thuật ngữ gói gọn một thế giới quan tưởng tượng ra rằng “trong thực tế, sự tốt lành và sự thật tự động phát sinh từ sức mạnh của công nghệ và kinh tế”. Thế giới quan này là nguồn gốc của mọi vấn đề khiến chúng ta đau đầu.
Đức Phanxicô cảnh báo rằng mô hình này sẽ tạo điều kiện cho sự tàn phá dã man hơn bao giờ hết đối với sự sống con người và thế giới, nhằm theo đuổi ảo tưởng về tiến bộ công nghệ và kinh tế. Tám năm sau, ngài viết, “chúng tôi có thể xác nhận chẩn đoán này”. Ngài coi các cuộc chiến tranh mới về tài nguyên thiên nhiên và sự trỗi dậy của trí tuệ nhân tạo là những biểu hiện của mong muốn ngoan cố hy sinh bản thân vì sự tiến bộ công nghệ và kinh tế.
Vào năm 2015, Đức Phanxicô đã đề cập đến sự kém hiệu quả của các cơ cấu quyền lực địa chính trị. Sau đó, ngài đã cảnh báo rằng “sự thất bại của các hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về môi trường cho thấy rõ ràng rằng nền chính trị của chúng ta phụ thuộc vào công nghệ và tài chính”. Việc không đảm bảo được các cam kết về việc loại bỏ nhiên liệu hóa thạch tại COP27 năm ngoái chỉ là ví dụ mới nhất cho điều này.
Tuy nhiên, trong tông huấn Laudate Deum, Đức Phanxicô viết, COP28 sắp tới ở Dubai có tiềm năng trở thành “một sự kiện lịch sử tôn vinh và tôn vinh chúng ta với tư cách là con người”, nơi mà các tôn giáo cùng chung tay hợp tác trong vấn đề này.
Hợp tác giữa các tôn giáo trong việc chống biến đổi khí hậu
Theo chương trình của Đức Phanxicô tại Hội Nghị COP28, vào Chủ Nhật, ngày 03/12, lúc 9 giờ sáng, Đức Thánh cha sẽ tham dự buổi khánh thành, “Nhà Tín Ngưỡng - Faith Pavillon”, trong Trung tâm Hội nghị. Khu nhà này có sáu mục đích chính yếu đối với COP28 :
Thứ nhất, nói lên sức mạnh của các tôn giáo và các vị lãnh đạo tôn giáo như những nhân tố thay đổi đối với các hoạt động về khí hậu. Thứ hai, nêu bật những hoạt động cụ thể từ phía các tổ chức và các cộng đoàn tôn giáo nhằm kìm hãm sự thay đổi khí hậu. Thứ ba, thúc đẩy sự liên kết ở cấp độ toàn cầu giữa các vị lãnh đạo tôn giáo nhằm cộng tác với nhau để hoạt động về khí hậu. Thứ tư, khuyến khích các vị lãnh đạo tôn giáo dấn thân đối thoại chính trị và gợi hứng về những mong ước về sự biến đổi khí hậu nơi các phái đoàn chính phủ. Thứ năm, để đạt được sự liên kết lịch sử đằng sau lời kêu gọi hành động về khí hậu, thống nhất. Và cuối cùng, tối đa hóa hoạt động tập thể của các tác nhân tôn giáo hiện diện tại Hội nghị COP28.Đây là kết quả của cuộc họp giữa đại diện của 30 vị đứng đầu các cộng đoàn tôn giáo lớn họp tại Dubai trong hai ngày 6 và 7 tháng 11, mà đại diện cho Đức Phanxicô là đức hồng y Pietro Paroli, Đức Imam của Đền thờ Hồi giáo Al-Azhar ở Cairo, Ai Cập và Đức Tổng giám mục Justin Welby của Liên hiệp Anh giáo cùng với các vị đại diện cho Chính thống giáo, Phật giáo, Do thái giáo, Hindu.
Các vị này đã ký vào một tuyên bố chung tái khẳng định quyết tâm của các tôn giáo góp phần chống lại sự thay đổi khí hậu, qua sự động viên các cộng đoàn tôn giáo liên hệ, đương đầu với cuộc khủng hoảng khí hậu và thỉnh cầu các nhà lãnh đạo chính trị đề ra các hoạt động cụ thể trong Hội nghị COP28. Tuyên ngôn được trao cho vị Chủ tịch Hội nghị COP28 là hoàng thân Ahmed Al Jaber, bộ trưởng Công nghệ và Kỹ thuật tân tiến của Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, Đức Hồng y Parolin khẳng định biến đổi khí hậu là một vấn đề thuộc lãnh vực trách nhiệm của các nhà chính trị, cũng như các nhà khoa học cùng những người khác. Nhưng sở dĩ có sự dấn thân của các vị lãnh đạo tôn giáo trong lãnh vực này là vì ở đây cũng có một chiều kích luân lý đạo đức, điều mà Tòa Thánh rất nhấn mạnh. Vì thế, đây là một đề tài mà một vị lãnh đạo tôn giáo cũng có tiếng nói và có thể thêm sự thúc đẩy cho quyết tâm hiện nay của thế giới đương đầu với vấn đề này.
Môi trường như điểm chung khởi đầu cho cuộc đối thoại liên tôn
Theo Đức cha Aldo Martinelli, đại diện tông tòa tại Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Oman và Yemen, Tuyên bố chung của các vị đứng đầu tôn giáo này là một "tuyên bố mạnh mẽ về ý định mà cả thế giới cần phải lắng nghe". Ngài nói tiếp, ở góc độ này, các nhà lãnh đạo tôn giáo trở thành “những người bảo vệ niềm tin và nguyện vọng của đại đa số những người sống trên hành tinh” và “tiếng nói” cho nhiều cộng đồng “không được lắng nghe”.
Một sự kiện cũng được thế giới Hồi giáo chờ đợi, như được nhắc lại bởi Tổng thư ký Hội đồng Trưởng lão Hồi giáo, Mohamed Abdelsalam người Ai Cập, theo đó sự hợp tác giữa đức tin và khoa học là nền tảng, cũng như sự hiện diện của các nhà lãnh đạo tôn giáo như Đức Giáo hoàng Phanxicô, như một minh chứng nữa cho tính “khẩn cấp” của cuộc khủng hoảng.
“Yếu tố liên tôn” trong việc giải quyết các vấn đề khí hậu là “điểm trung tâm” và các tín ngưỡng “có nhiệm vụ chung là bảo vệ và thúc đẩy công trình sáng tạo”, vị đại diện Tông Tòa tiếp tục. “Đó là một khía cạnh thú vị – ông nói thêm – rằng các tôn giáo có thể hội tụ về các chủ đề sinh thái, tìm ra mảnh đất màu mỡ để gặp gỡ, so sánh, đối thoại và hiểu biết”, vốn đang mở rộng để bao trùm cả “di sản tinh thần và giáo lý”.
Để xác nhận tầm quan trọng, vị đại diện tông toà nhắc lại việc đã dành nhiều hơn một đoạn trong bức thư mục vụ đầu tiên gửi các tín hữu của giáo phận mà ngài đại diện được xuất bản gần đây: “Thiên Chúa kêu gọi chúng ta –Ngài viết– và thu hút chúng ta đến với Ngài qua vẻ đẹp của sinh vật và sự sống. Chúng ta khám phá ra rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với vẻ đẹp, sự tốt lành và tình yêu. Cuộc sống là một ơn gọi, bởi vì thực tế là một sự khích lệ.” Ngài kết luận, khi chăm sóc thiên nhiên, ngôi nhà chung, người Kitô hữu tìm thấy mảnh đất màu mỡ để thực hiện sứ mệnh của mình và thiết lập mối quan hệ đối thoại với Hồi giáo và các tín đồ của các tôn giáo khác.
Con người trong mối tương quan bình đẳng với thế giới
Đức Phanxicô đã nói về việc tham gia COP28 tại Dubai trong buổi đọc kinh Truyền tin trưa Chúa Nhật 12/11, trong đó ngài kêu gọi các tín hữu hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô hãy cầu nguyện cho hội nghị đạt được các mục tiêu của mình. Một mục tiêu thiết yếu là mang lại sự sống – trong một thế giới ngày càng bị chia rẽ, xung đột và bạo lực – cho các chính sách chung và sự hợp tác hiệu quả nhằm hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu và kiểm chứng tác động của biến đổi khí hậu.
Diễn từ về khí hậu và môi trường của Đức Phanxicô ta có thể tìm thấy qua văn bản hay hành động cụ thể trong các chuyến viếng thăm đến Canada (2022) nơi ngài xin lỗi về việc làm đối với thổ dân bản địa hay qua chuyến viếng thăm Mông Cổ (9/2023), nơi ngài đã mời gọi các tôn giáo cùng gìn giữ vẻ đẹp cho thảo nguyên đang bị nạn ô nhiễm và khai thác tài nguyên khoáng sản xâm chiếm.
Vì nói cho cùng, chống ô nhiễm và biến đổi khí hậu chính là vì con người, như ngài đã lên tiếng cảnh báo trước nạn di dân đang trở thành vấn nạn cho vùng Địa Trung Hải trong chuyến viếng thăm Marseille, miền nam nước Pháp vừa qua. Tại đây, ngài đã gặp gỡ với các giám mục đang dự hội nghị về vùng Địa Trung Hải.
Ta cũng thấy sự phát triển trong suy tư của Đức Giáo Hoàng về tình trạng sự sống của toàn thể sinh vật. Trong triều đại giáo hoàng của mình, Đức Phanxicô đã tìm cách thúc đẩy Giáo hội thoát khỏi chủ nghĩa lấy con người làm trung tâm đã ăn sâu vào truyền thống Kitô giáo. Mà Tông Huấn Laudate Deum cho thấy điều này. Đức Phanxicô nói với chúng ta: “Cuộc sống của con người sẽ không thể hiểu được và không thể bền vững nếu không có các sinh vật khác. Là một phần của vũ trụ, tất cả chúng ta được liên kết với nhau bằng những mối liên kết vô hình và cùng nhau tạo thành một loại gia đình phổ quát.”
“Không bền vững” chúng ta có thể đọc qua lăng kính lấy con người làm trung tâm – nhưng “không thể hiểu được”? Có lẽ sự lựa chọn từ ngữ này là sự thừa nhận của các học giả làm việc trong lĩnh vực đối thoại giữa thần học và khoa học tự nhiên, những người đã tìm cách chứng minh các động lực xã hội và thậm chí cả đạo đức phức tạp đã tồn tại giữa con người và sinh vật trong nhiều thiên niên kỷ. Theo họ, chỉ thông qua sự tương tác của chúng ta với những sinh vật không phải con người mà chúng ta mới trở thành con người thành toàn.
Bà Ségolène Royal, nguyên bộ trưởng Môi Trường Pháp và Chủ tịch của COP21 (2015) tại Paris, khi đón nhận tin về chuyến đi Dubai dự Hội Nghị COP28, đã ca ngợi khả năng của Đức giáo hoàng Phanxicô trong việc “đánhđộng lương tâm” và diễn từ của ngài về một “hệ sinh thái toàn diện”.
Thu, 23 Nov 2023
Podcast simili a <nome>
- RADIO NHÂN DÂN - TIN TỨC BẢN TIN THỜI SỰ - BÁO NHÂN DÂN
- Podcast Báo Tuổi Trẻ Báo Tuổi Trẻ
- Tin nhanh mỗi ngày Báo Tuổi Trẻ
- CNBC's "Fast Money" CNBC
- El Partidazo de COPE COPE
- Herrera en COPE COPE
- VĂN NGHỆ CUỐI TUẦN CRI
- The Dan Bongino Show Cumulus Podcast Network | Dan Bongino
- Es la Mañana de Federico esRadio
- La Noche de Dieter esRadio
- Khám phá Đài Loan Hải Ly, Tường Vy, Đức Mạnh, Thu Trang, Phương Thảo, Khiết Nhi, Tố Kim, Minh Hà, Rti
- Nghien cuu Quoc te Lê Hồng Hiệp
- Más de uno OndaCero
- Góc khuất Việt Nam RFA
- No Title RFI
- Tạp chí Việt Nam RFI Tiếng Việt
- SBS Vietnamese - SBS Việt ngữ SBS
- El Larguero SER Podcast
- Nadie Sabe Nada SER Podcast
- SER Historia SER Podcast
- Todo Concostrina SER Podcast
- 辛坊治郎 ズーム そこまで言うか! ニッポン放送
- 飯田浩司のOK! Cozy up! Podcast ニッポン放送
- 武田鉄矢・今朝の三枚おろし 文化放送PodcastQR
Altri podcast di Notizie e Politica
- Les Grosses Têtes RTL
- Hondelatte Raconte - Christophe Hondelatte Europe 1
- Laurent Gerra RTL
- L'œil de Philippe Caverivière RTL
- C dans l'air France Télévisions
- Enquêtes criminelles RTL
- Bercoff dans tous ses états Sud Radio
- L’heure du crime : les archives de Jacques Pradel RTL
- Hondelatte Raconte - Cote B Europe 1
- Les récits de Stéphane Bern Europe 1
- Lenglet-Co and You RTL
- Global News Podcast BBC World Service
- Gaspard Proust - Les signatures d'Europe 1 Europe 1
- LEGEND Guillaume Pley
- Les chroniques d'Arnaud Demanche RMC
- RTL Matin RTL
- C ce soir France Télévisions
- Face à Philippe de Villiers Europe1
- Apolline Matin RMC
- Pascal Praud et vous Europe 1